Truyện Sáng Tác - nơi tụ họp những cây bút trẻ có đam mê sáng tác và mong muốn tác phẩm của mình được đón nhận. Hãy đến với chúng tôi và thỏa sức chia sẻ những tác phẩm do chính bạn sáng tác!




Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017

Tên tác phẩm: Giống Rồng


Author (tác giả): Nguyễn Khai Quốc


Category (thể loại): Tiểu thuyết Lịch sử, Hiện thực xã hội


Rating (đánh giá truyện theo độ tuổi):


Status (tình trạng truyện: on-going hoặc finished): Đang viết (on-going)


Warning (cảnh cáo về nội dung truyện): Người Việt nên biết lịch sử Việt.


Casting (giới thiệu nhân vật):
Đỗ Tồn Thành - An Nam Đô úy, Thứ sử Ái châu thời Mã Thực đô hộ sứ - Nhân vật chính trong Tiến trình thứ nhất của Tiểu thuyết.
Dương Thanh - Nha môn tướng diệt Tượng Cổ, đánh Hàn Ước sứ, buổi ban đầu gây dựng lực lượng, ý chí độc lập của dân tộc Nam Việt.
Đỗ Sĩ Giao - Trợ tá đắc lực của Dương Thanh, lập nhiều chiến công hiển hách giúp Giao Châu qua nhiều cơn hoạn nạn.
Lý Do Độc - Phòng đông đô úy, người đã chết đi sống lại phò giúp Tồn Thành chống lại quân triều đình, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của nhân dân Nam Việt thời kỳ hậu Đường.
- Khúc Thừa Dụ - nhận vật chính trị quan trọng bậc nhất thời kỳ hậu Đường tại Việt Nam. Người có công tái tạo nền độc lập tự chủ của nhân dân Việt Nam. Nhân vật chính trong tiến trình thứ 2 của Tiểu thuyết.
- Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền: Không nói thì chắc ai cũng biết. Hai nhân vật khởi đầu cho kỷ nguyên hoàn toàn độc lập tự chủ của Đại Cồ Việt. Là những nhân vật chính trong tiến trình thứ 3 của Tiểu thuyết.
- Các nhân vật lịch sử Trung Quốc: Mã Thực, Vũ Hồn, Cao Biền, Tăng Cổn, Hoằng Tháo... là những điểm tô cho những nét phác họa nên chân dung của những nhân vật lịch sử Việt Nam.
- Ngoài ra tuyến nhân vật phong phú khác sẽ tái hiện một cách chân thực những bộ mặt khác nhau, những hoàn cảnh sống khác nhau trong cuộc sống xã hội.
Tiểu thuyết mang tâm huyết của người con đất Việt về lịch sử, con người Việt. Hy vọng các bạn đọc ủng hộ cho tác giả.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Chương 1.1 Bạo ngược quan tham

Từ xưa đến nay chuyện cá chép hóa rồng chỉ có trong truyền thuyết, trâu ngựa chỉ làm con mồi cho hổ báo. Ấy vậy mà trong nhân gian nơi xứ nam trong mấy năm này, xảy ra bao điều kỳ lạ. Dân ở Đỗ Gia trang hương Yên Hưng, huyện Ninh Hải, Lục Châu, giáp sông Vân Cừ bắt được cá chép vàng, vảy rồng lấp lánh, đầu nhô sừng cao, nặng tới ba trăm cân. Nơi Ái Châu, có một con trâu rừng húc chết một đàn cọp chuyên săn gà, bắt dê dưới làng. Mọi người dân xứ Nam này đều kháo nhau rằng: “Cá chép hóa rồng, trâu xông giết cọp chẳng phải là điều hiếm có hay sao. Chỉ trong vòng hơn trăm ngày bao điều kỳ dị xảy ra nơi xứ này. Ắt có điềm báo cho vận thế thay đổi nơi xứ này.”

Trong những năm tàn tệ này của đế chế Đường, quan tham đông như kiến cỏ, kéo bè kéo cánh ra sức vơ vét của cải tiền bạc của triều đình và dân chúng. Hoạn quan đục nước béo cò, ra sức tạo ảnh hưởng lớn trong cấm cung, thao túng quyền lực, triều đình ngày càng bê trễ, mỗi lúc càng lâm nguy. Ngoài biên cương, các bộ tộc phía Bắc, phía tây đánh phá chiếm đất, một dải đất rộng lớn của nhà Đường chiến tranh đã trở thành một câu chuyện quá quen thuộc. Trong nước, các thế lực hùng cứ khắp nơi đứng dậy khởi nghĩa nổi lên như nấm, các tướng lĩnh thay nhau làm phản, lật đổ lẫn nhau, đánh chiếm đất đai, thành trì. Suốt dọc sông Trường Giang đến phía bắc dãy Ngũ Lĩnh, dân chúng lầm than trong khói lửa binh đao.

Vượt qua núi Ngũ Lĩnh về phía biển Nam Hải, dân chúng oán thán bởi sự hà khắc của quan chức đương thời.  Nơi đây xưa thuộc đất người Việt Cổ đã từ nghìn năm trước, đến Đông Hán thì bị người Hoa Hạ từ phương Bắc tới xâm lăng chiếm làm đất của người Bắc. Đã qua đến gần một nghìn năm, người đất này không hề cam chịu sự cai trị của người phương Bắc và coi triều đình phương Bắc như một kẻ xâm lăng. Đời này qua đời khác, triều đình phương Bắc càng ngày coi mảnh đất phía nam dãy Ngũ Lĩnh như cái gai trong mắt, chấy giận trong chăn đã lâu ngày. Đến thời kỳ thịnh trị của Đường Triều, những kẻ tay sai của triều đình Trường An coi nơi đây chỉ là chỗ tạm lui để rồi tiến tới những tham vọng cao hơn, cũng không ít kẻ lún sâu vào việc vơ vét của cải của dân Nam với vô vàn những sản vật, dị thú, quái mộc… Sự chia rẽ ngày càng sâu sắc, các quan chức đô hộ ngày càng ra sức càn quét các cuộc nổi dậy theo cách tạn bạo nhất có thể. Dân càng đói, chúng sinh càng khổ sở dưới cảnh áp bức của người phương Bắc. Ấy thế nên bao nhiêu danh sĩ Trung Nguyên đã vượt Ngũ Lĩnh để trú chân nơi đất An Nam ấy rồi cũng phải thốt lên rằng:

“Trung Nguyên ai oán muôn phần
Đất Nam đá sỏi vạn lần xót thương”

Người đến, rồi người lại đi bỏ lại đây là muôn ngàn căm phẫn, cái ý chí sục sôi suốt nghìn năm ấy lúc nào cũng hiện diện trong mỗi người dân đất ấy. Trong sóng gió chính trường Trung Nguyên, ấy cũng là lúc những hiền nhân miền xa xôi phía nam có thời cơ lập nghiệp.

Năm Đinh Dậu (817), quan đô hộ là Bùi Hành Lập sau khi vơ vét của cải, nhũng loạn lòng dân đất An Nam đã kịp thời chạy thoát về Trung Nguyên để lại cho viên quan đô hộ tiếp theo là Lý Tượng Cổ vốn dòng tông thất nhất Đường là sự phẫn nộ, và căm ghét viên quan đô hộ trong dân chúng An Nam. Tượng Cổ theo lối mòn của những viên quan đô hộ trước, cướp miếng ăn, cái mặc của người dân bằng những chính sách rất hà khắc, cống nộp nặng nề, sưu thuế vô lý. Được tiếng tham lam và với hão huyền vơ vét nhiều để có tiền cai “cúng” cho quan trên, ấy là cơ hội để mở ra con đường công danh sự nghiệp sáng lạng. Hành Lập ở đây hai năm thôi mà hắn còn tăng  hai bậc phẩm quan, vậy nên Tượng Cổ chắc bẩm rằng chỉ cần hắn tăng thuế, tăng sưu lên vài lần, buộc dân An Nam phải nộp lên gấp đôi, gấp ba nhờ việc chiếm được một vùng đất rồng lớn giàu sản vật phía Nam giáp với Hoàn Vương là hắn cũng có thể mua được chức quan cao hơn hai bậc phẩm quan.

Làm quan đô hộ được hai năm, đến năm Kỷ Hợi (819), Tượng Cổ không những chẳng vơ vét được mà hắn lúc nào cũng bị hoảng loạn bởi dân chúng An Nam chống cự quyết liệt. Hắn không ngờ được rằng sự giận dữ của người Nam lại khiến các tướng sĩ của người phương Bắc do hắn mang theo khiếp hãi đến vậy. Bấy giờ Lâm Ấp rục rịch đánh chiếm châu Ái, châu Hoan, người Man Động từ tây bắc giáp với Nam Chiếu nổi dậy nhăm nhe đánh thẳng Tống Bình phủ. Tượng Cổ lòng nóng như lửa đốt, phía Triều Đình rất nhiều kẻ đã nhăm nhe đánh bật hắn ra khỏi đất An Nam do suốt dòng hai năm “hắn chẳng làm được tích sự gì”.

Nghe trong nhân gian có chuyện kỳ lạ, hắn sai tên huyện lịnh tại Ninh Hải (Quảng Ninh) đến hương Yên Hưng để dò la. Tên huyện lịnh đến nơi yêu cầu tất cả mọi người dân tập trung tại bãi sông. Thấy trai tráng mọi người trong làng ai cũng đóng khố, phụ nữ chỉ có mảnh yếm sờn sờn, mặt mày nhem nhuốc lại thêm mùi tanh tanh của cá, hắn liền sai mấy tên lính cho hắn lên kiệu, nhìn qua màn, tay cầm vạt áo che mũi nói vọng ra:

- Thấy quan đến mà các ngươi sao lại chậm trễ? Không lẽ các ngươi muốn chết hay sao?

Một lão già làng đứng lên hàng trước, tay chống gậy, người cúi rạp xuống sát đất mà trả lời rằng:

- Bẩm quan! Chúng con dân chài lưới, quanh năm đò dọc thuyền ngang. Không quen lễ nghĩa phép tắc trên bờ. Mong quan thứ tội.

- Lão nói láo. Lão chừng ấy tuổi đời. Đâu phải không biết. Cái hương này có lần nào quan đến mà không phải đợi các ngươi. Các ngươi lại muốn phạt thêm nữa chăng? – Tên quan quát tháo từ trong rèm kiệu.

Cả đám dân chài cúi xuống, tay chắp phía trước lậy quan:

- Mong quan tha tội.

Ông cụ bước tiếp đến mà nói, giọng run run:

- Bẩm quan. Con dân chúng tôi trước giờ không dám thất lễ. Những lần quan và lính thu tô đến đây trước hay cả lần này nữa, chúng tôi quá nửa trên thuyền, trên bờ chỉ toàn những người già như lão đây, chậm chạp nên mong quan thứ tội. Mấy năm nay, cá nhỏ, lại không nhiều, chẳng thể nộp thuế tô đầy đủ cho quan trên. Giờ đây trong hương mỗi nhà cũng chỉ vài con cá khô…

Huyện lịnh cắt lời:

- Ta không cần biết. Hai mùa nước rồi, các ngươi còn thiếu ta cả thảy ba nghìn cân cá. Cá các ngươi nộp đem đi bán khắp Giao Châu này chẳng được là nhiêu. Quan trên luôn miệng trách móc ta. Các người nghĩ xem. Các huyện lân cận vùng Giao Châu này có cái nơi nào như cái huyện này không? Lần này, các ngươi không nộp đủ thì cả ta cùng các ngươi chẳng thể yên ổn được đâu.

Nói rồi hắn cho lính vào lục lọi từng chum vại, lưới chài từ trên bờ trên thuyền. Mọi người trong làng đứng dưới cái nắng oi của buổi trưa cuối hè. Ai cũng nhễ nhại mồ hôi, cúi gằm xuống đất. Bọn trẻ con thì núp dưới bóng của cha của anh để tránh cái nắng rát như đổ lửa ấy. Tên huyện lịnh ung dung trong rèm kiệu, chốc lát hắn lại chẹp chẹp miệng rồi lại thưởng thức một ly trà mà tên lính chuyển cho hắn. Hắn lẩm nhẩm: “Bọn mày định giấu nó à? Lần này mà có được nó ta dâng lên thứ sử chắc chắn được thưởng to rồi.” Hắn lại cười và gọi một tên lính đến mà hỏi:

- Các ngươi tìm thấy thì mang đến đây trước mặt bọn dân đen kia cho ta.

Tên lính chắp tay trước người, cúi gằm mặt vừa bước lui ra vừa gật đầu lia lịa, miệng liên tiếp nói “Dạ vâng. Dạ vâng. Dạ vâng”.

Có cụ già tiến lại gần kiệu, tên lính xua xua: “Ông lão chớ có lại gần!”. Huyện lịnh chóp chép miếng trầu:

- Lão có chuyện gì thì cứ nói! Nhưng hãy đứng ra xa một chút. Ta không quen mùi này của các người.

Giọng Lão khảng khái thưa:

- Bẩm quan. Quân lính của ngài không hiểu đang định tìm thứ gì? Cá chúng tôi treo, phơi chứ đâu có để chum vại. Mấy cái chum chứa nước mưa để ăn. Cớ sao lại đổ hết đi? Sắp tới trời hanh khô, trẻ con người gia lấy gì mà ăn mà uống? Mong quan xem xét.

Hắn lại chọp chẹp:

- Khá hay cho cho mấy cái vại của các người. Ta thích thì ta làm. Đang mùa mưa, nước ngập đầy sông lại còn già mồm. Chả nhẽ ta không biết thiên văn bằng ngươi.
Để ta xem, các ngươi có điều gì giấu giếm ta không?

Ông Lão phừng phừng đỏ mặt tiến lại gần kiệu hơn nữa thì bọn lính tráng xô vào cản. Ông Lão hẩy nhẹ một cái, cả đám ấy lăn đùng ra đất. Bọn trẻ con cười khúc khích, người lớn thì chỉ dám nhìn theo rồi, che miệng của mấy đứa trẻ lại kẻo lại bị quan trách phạt. Lão cúi thấp thưa với quan:

- Dạ bẩm. Lão không dám đắc tội với quan. Mà chỉ là xin thưa với quan rằng chúng tôi mùa này chẳng được mấy. Chỉ được vài con cá treo khô như hương lão trưởng đã thưa với quan. Còn tôi chỉ mong các quan nương tay, chúng tôi chỉ có mấy cái chum vại ấy là tài sản thôi. Tôi cũng xin quan trên một điều rằng, bọn trẻ con, phụ nữ người già, đứng nắng như thế này họ chẳng thể chịu nổi. Mong quan cho họ được lui.

- Lão nói nghe cũng có lý. Thôi được. Ta cho lệnh đám lính lục soát không để chum vỡ, lưới rách. Còn các ngươi lui về gốc cây đằng kia mà đứng. Không ai được về nhà. Kẻ nào về nhà mà ta bắt được phạt một trăm roi.

- Đội ơn quan.

Mọi người trong làng lưng cúi thấp, tay chắp trước người lại lui dần về phía gốc cây. Đám thanh niên làng lán lại đứng cúi mình trước kiệu quan.

Sau hai canh giờ lục soát, bọn quân lính tập hợp đầy đủ tại bãi sông báo với quan rằng:

- Bẩm quan. Trên thuyền, trong bờ chẳng có nổi một con cá to nào. Chỉ thấy cá riếc, cá rô cùng vài con tôm này thôi ạ.

Bọn lính vác một lưới cá nửa tươi nửa khô lẫn cùng với nhau xuống dưới mặt cát. Mọi người rì rầm: “Sao lại để cá thế kia? Cá khô tôi phơi mấy nắng rồi. Cá tươi phải để riêng chứ. Chẳng biết là cá của nhà nào nữa, rồi chúng ta chia thế nào! Cả chục cái lưới bị rách kia kìa…”

Tên huyện lịnh quát lớn:

- Tất cả các ngươi! Mau mau thành khẩn không thì đứng có trách ta là ác.

Có chàng thanh niên bước lên:

- Bẩm quan. Chúng tôi chỉ có những thứ này thôi. Quan trên thu thì chúng tôi biết ăn bằng gì? Phải không mọi người. – Anh này hỏi mọi người.

Dân làng chỉ xì xào chứ không ai dám nói to.

- Ái chà chà. Cái tên cứng đầu này. Nhà người có biết là ngươi đang nói chuyện với ai không? – Một tên lính dương giáo lên hăm dọa.

- Tôi cũng như anh, là con dân đất nam này. Anh cần cơm ăn áo mặc, chúng tôi cũng vậy. Trước đây, năm nào chúng tôi cũng nộp sưu thuế đầy đủ đâu có thiếu cân cá nào. Mấy năm nay sông ít cá tôm, còn chẳng đủ ăn. Chưa dám mong các quan trên cứu đói chỉ dám cúi xin cho hoãn lại vài mùa. Khi cá tôm nhiều trở lại, con dân chúng tôi lại nộp bù.

Tên quan huyện ngồi trong kiệu, ném miếng bã trầu ra, miệng gắt lên:

- Con dân điêu ngoa. Ta nghe nói, đêm rằm cách đây dăm ngày, dân làng các ngươi tổ chức hội họp linh đình, vui ca nhảy múa suốt tối. Ấy thế là đói kém hay sao?

Chàng thanh niên định tiến lên nhưng ông lão giọng sang sảng ngăn lại:

- Cháu hãy để ta. Chớ có vội vàng.

Lão bẩm với quan:

- Bẩm với Lý huyện, đêm hôm đó rằm tháng sáu, chúng tôi chỉ là mượn ánh trăng sáng rồi mọi người cùng nhau làm lễ cầu ngư mong mùa nước đầy cá tôm. Có kẻ thấy thế mà rèm pha với các ngài quả oan cho chúng tôi. Các ngài thấy đấy, khố rách chẳng có mà mặc, cá khô ròi bọ bâu đầy, chúng tiểu nhân lấy gì ra mà tiệc tùng được đây. Mong Lý huyện minh xét.

Tên quan hậm hực trong kiệu chưa biết nói gì thì có đám lính vác hai chum nặng, đám còn lại thì khiêng một chú cá lớn vảy vàng rực rỡ trong chiếc lưới đan bằng sợi đay dày. Nghe tiếng nhốn nháo, tên huyện quan ngồi dậy, vén rèm kiệu ra thì thấy ánh sáng lòa đôi mắt. Hắn hỏi:

- Cái gì thế hả?

Một tên lính chạy tới, rồi chỉ về phía đôi chum và con cá:

- Bẩm quan! Chúng tôi đi về phía tây nam của con sông chừng bốn dặm theo thuyền thì thấy ở đó có hai cái chum rượu lớn và một con cá đang bị nhốt ở dưới sông.

Tên huyện lịnh họ Lý bước tới, nhìn một lúc, con cá quẫy mạnh khiến vài tên lính bị ngã ra. Hắn hét lớn:

- Thứ gì đây?

Ông lão vừa nói bước ra:

- Thưa quan. Chúng tôi mới bắt được cá này. Nhưng nhìn dáng vẻ nó khác thường nên chúng tôi đang định làm lễ để thả về với sông mong điều tốt lành đến với dân làng.

- Chà chà. Mình thon, vây rộng, vảy rồng. Râu thưa, miệng lớn sừng trông dị thường. Quả nhiên quý hiếm. Thôi được rồi. Cá này để ta tâu với quan trên mang cá này đi cầu ngư cho cả vùng Giao Châu này. Nếu quan trên mà vui lòng thì tiền sưu, tô thuế vụ này ta sẽ xin miễn cho các ngươi. Nhưng phải nhớ nộp trả nợ những năm trước đấy.

Nói xong rồi. Hắn vội vàng cho quân đi rồi mượn một chiếc thuyền lớn sai chở đến Tống Bình. Hắn ung dung ngồi kiệu rồi bước lên thuyền. Hắn quay lại nhìn dân chài với ánh mắt kiêu ngạo, cười lớn và buông lời rằng:

- Các ngươi thừa hưởng hồng phúc Đường triều, nay có vật lạ đem cúng tiến ấy cũng là lẽ nên làm. Ta sẽ xin ân điển cho các ngươi.

Hương lão trưởng ngồi sụp xuống nhìn lên trời mà than rằng:

- Trời xanh có mắt! Chúng con dân đen cùng cũi, chẳng thể trả Long thần về với đại ngàn rộng lớn.



Message reputation : 100% (1 vote)



Được sửa bởi Nguyễn Khai Quốc ngày Wed Jun 14, 2017 4:43 am; sửa lần 1.

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Chương 1.2 Trốn chạy

Trong lúc thuyền lớn lướt đi thật nhanh về Tống Bình, có một thuyền nhỏ đi ngược từ đông nam lên, dáng dấp một chàng thanh niên tráng kiện đang đẩy mái chèo nhanh thoăn thoắt ngược cửa Nam Triệu trở vào sông Thầy. Trăng đã treo cao trên lũy tre ven đê, tiếng mái chèo khua nước bì bõm chẳng thể xua tan đi không gian im ắng của sông nước xứ này. Tên quan huyện chễm chệ ngồi trên lọng đung đưa dưới ánh sương mờ ảo. Lát lát hắn lại xua xua đuổi muỗi, hắng giọng hắn liên tục hỏi đám lính: “Sắp tới chưa bay?”

Mấy tên lính gù gật bên mạn thuyền giật mình nói theo: “Sắp rồi, sáng rồi”.

Chiếc lưới căng kéo con cá về sông Cái ngược dòng khiến mấy tên lính thay nhau đẩy mái chèo cũng thấm mệt. Có chút canh cá loãng trên cái niêu chưa hết canh ba đã sạch trơn. Một hai tên lính đi tuần vòng quanh thuyền như hai cái xác vô hồn kéo lê trong đêm trăng đôi mươi. Bỗng nhiên thuyền thấy lướt nhẹ đi, không còn cảm giác nặng trĩu nữa. Mấy tên lính xì xầm: “Chắc là con cá đã chịu bơi theo thuyền rồi”.

Thuyền lắc lư một cái thật mạnh khiến tên quan huyện lăn quay ra sàn. Bọn lính nhốn nháo: “Thuyền nghiêng, kẻo lật.” Góc phải mạn thuyền là đám lính bị trượt dồn vào chất đống, giáo mác lô xô đâm vào áo quần chúng khiến máu chảy đầm đề. Một lát sau thuyền lại yên, tên quan huyện chỉnh lại đầu tóc, xiêm y quát tháo:

- Các ngươi lái thuyền kiểu gì đấy?

Một tên lính lầm lũi từ giữa khoang thuyền đi lên, mặt lấm lét cho biết:

- Bẩm quan! Lưới rách, cá đã bơi mất.

Tên quan mặt đỏ như gấc, căm căm nhìn đám lính rồi ra sức quát tháo:

- Cha mẹ nhà chúng bay. Có con cá cũng không giữ được. Chúng bay có biết đầu của các ngươi cả trăm đứa cũng không đổi được nó không? Nó chính là rồng đất Việt đấy. Bọn bay có biết không?

Bọn lính tên nào tên ấy mặt mũi như gà vừa cắt tiết. Tên quan họ Lý lại tiếp tục than vãn:

“Ôi than ôi! Đi ngay, bơi nhanh. Ta không cần biết con cá bơi nhanh cỡ nào. Từ giờ đến giờ thìn ngày mai các ngươi không bắt được con cá thì ta giết sạch các ngươi.”
Bọn lính tráng vội vàng vơ lưới cụ nhốn nháo soi đuốc xuống mặt sông tìm cá. Một đám khác nhảy vội lên bờ khua xóm chài ven sông lùng sục cùng bọn chúng. Tên bổ đầu họ Mã thì thầm bên tai quan huyện: “Bẩm quan lớn! Lúc nghiêng thuyền, không biết Đại nhân có để ý không? Ta thấy dưới ánh trăng, mạn phải thuyền có một bóng người. Sải tay hắn dài cỡ chục tấc, chân thoăn thoát bì bõm xuôi theo dòng.”

- Có chuyện đó sao? Sao nhà ngươi không nói sớm? – Tên quan huyện sửng sốt.

- Bẩm đại nhân. Người nóng giận tôi chưa dám can. Nay thấy nguôi nên tôi mới bẩm. Tôi còn nhìn thấy rõ một vết tràm sau lưng hắn giống y hệt hình săm của đám dân Đỗ gia trang. Chắc chắn là bọn dân đen đó đã đến cướp báu vật ấy.
Tên quan hét lớn, tay hắn cầm cây giáo đâm mạnh vào mạn thuyền để xả nỗi giận dữ.

- Bay đâu! Quay lại Đỗ Gia Trang giết hết cho ta.

Tên bổ đầu cúi gằm mặt xuống, mặt tái mét, miệng lắp bắp:

- Bẩm… bẩm… bẩm! Có… có… cần giết, giết hết không, không ạ?

- Giết sạch cho ta! Lũ điêu dân láo toét. Lần này không tìm được cá ta sẽ giết sạch bọn bay.

Trời dần trở sáng, đám lính đi tìm chưa thấy có tin gì báo về với tên quan huyện. Hắn vật vờ trên chiếc lọng, thi thoảng lại giật mình miệng lẩm bẩm “Long Ngư, Long Ngư”. Mấy tên lính rệu rã chuẩn bị bữa sáng cho quan huyện cùng với chút nước ấm để hắn rửa mặt.

Hắn cáu gắt liên hổi: “Cha mẹ mày! Lão gia mà không thấy nó chúng mày sẽ phải chết! Phải chết, phải chết.”

Giờ đã quá Tỵ, hắn nhễ nhại dưới ánh nắng hè gay gắt. Không thấy tăm hơi từ đám lính uể oải trên sông. Tên quan họ Lý liền giục giã sai quay lại hương Yên Hưng.

Thuyền quan cập bờ, dân chúng nhìn tên quan họ Lý một cách e dè. Hắn giơ tay ra hiệu cho đám lính chặn hết mọi ngả đường. Tay hắn lăm le thanh gươm trên tay. Hắn chỉ trỏ, đám lính xông vào từng nhà kéo người già, phụ nữ, trẻ em tay chẳng có gì chỉ biết ú ớ rồi hét lên “Giết người! Giết người!” Trẻ con lon ton nhốn nháo chống cự yếu ớt trước sự sỗ sàng của đám lính tráng. Rồi trong chốc lát, cả làng chài đỏ máu, thây người chất đống chẳng còn chút sự sống. Xác gà, xác lợn, cá khô, tươi lẫn lộn đỏ lòm trong đầm máu. Chỉ còn vài cánh tay thoi thóp và giọng the thé yếu ớt cũng bị gươm giáo của bọn lính dập ngay.

Đám thanh niên làng nghe tin hốt hoảng chạy về, người cầm lưới kẻ cầm tay chèo vội vã cập bờ lao vào liều chết một phen với đám lính đằm đằm sát khí kia. Kẻ chém người giết, máu cũ chưa khô đã lại đậm thêm màu. Lính tráng sứt chán mẻ đầu, đám thanh niên làng thì rách tay, gãy chân. Chẳng còn ai lành lặn. Những tên lính quen tập trận giả nay thấy yếu ớt khi đương đầu với những thanh niên làng chài, lần lượt ngã quỵ rồi rủ nhau lên thuyền chạy trốn. Máu chảy thành dòng, một góc sông lênh láng. Tiếng í ới gọi nhau cũng dần tắt lịm trong cái nắng rát mùa hè. Chỉ trong nửa canh giờ thôi, những mái nhà cháy rụi, những xác người lô nhô lần lượt được kéo đi trong cơn đói mệt của những người còn lại trong làng.

Chàng thanh niên tóc búi củ hành, dáng người vạm vỡ, thân cao bảy thước, mình dày tựa chum, đôi chân thoăn thoắt, ánh mắt sáng ngời trên khuôn mặt vuông vức, mày rậm như hùm. Mặt lấm lét, tay đỏ máu tươi anh ta vừa đi vừa rưng rưng nước mắt, giọt lệ lăn giọt mồ hôi hòa làm nhạt dần những vết máu trên khuôn mặt:

- Thật là khốn nạn. Đám bạo tàn các ngươi sẽ phải chết. Thù này ắt báo. Nợ này ắt đòi. Con dân đất này vô cớ chịu đọa đày chỉ vì một con cá. Thật là tai họa.
Anh gầm vang một tiếng đổ về bãi lầy cửa sông. Tôm cá nhảy lên ùa về biển lớn. Cua cáy chạy lên bờ vì tiếng rền sóng dữ. Cả lảng chỉ còn lại tám người cùng hai chiếc thuyền nhỏ.

Sau hơn ba ngày vừa cúng tế, vừa trốn chạy. Ba đêm ròng tám người còn lại đào được hơn hai chục hố mả dọc dòng sông xuôi về Đông Hải. Họ chẳng dám hương hoa hay đắp nấm vì sợ lũ quan quân quay lại đào quật lên. Tang thương nhưng cực chẳng đã họ lại bàn:

- Giờ ta chẳng còn chốn dung thân, quan quân lùng sục chúng ta khắp Giao Châu này. Thôi thì hai thuyền này, mỗi hướng một ngả. Ta cùng với Sĩ Giao, Sĩ Hoàng, Đỗ Dụng ngược dòng về Giao Châu có chỗ người quen để tá túc chờ ngày tương hội. Còn Đỗ Trang, Đỗ Kiêm, Tồn Thành và Thủ Trừng xuôi theo Đông Hải đến Ái Châu nương nhờ chỗ Đỗ thứ sử Ái Châu.

Thuyền ngược về Tống Bình đi đến cửa sông Thầy thì bị đám cướp khét tiếng ở Giao Châu là Lục Bạch Hổ cướp phá, thuyền tan người bị bắt chẳng còn tin tức. Thấy vậy, Tồn Thành lấy làm buồn lắm. Đêm trăng xuống lại nhâm nhi ly rượu khóc than: “Trời đất điên đảo, lòng người đảo điên. Biết đến khi nào Đỗ Gia ta mới được ổn yên?”.

Vài tuần sau khi đến được Trường Châu, Tồn Thành và Thủ Trừng lại lạc mất Đỗ Trang, Đỗ Kiêm trong lần quan quân vơ vét thuế sưu nơi này. Chẳng là Trang và Kiêm kết giao với đám dân nghèo ngoài biển ở hương Giao Long (Giao Thủy Nam Định) chống phá bọn quan quân nên bị bắt mà không biết bị giam ở nhà lao nào. Hỏi dò thì Tồn Thành được biết đã bị đưa về nhà lao huyện Nhật Nam châu Ái. Hai cha con kiếm cá, tìm cơm ở Trường Châu một thời gian, thân cô thế cô lạc lõng giữa dòng. Con còn bé thơ nhọc nhằn kiểm sống chẳng phải kế hay mà cũng không thể có cơ hội thay đổi cuộc sống này. Tồn Thành nhớ lại lời của Đỗ Đại dặn trước khi chia ly. Tồn Thành tìm về Ái Châu nơi thứ sử châu Ái.

Xuôi về nam chừng hơn hai chục hải lý rồi về sâu trong đất liền hai trăm dặm đường, cuối cùng Tồn Thành cùng con trai cũng đến được Cửu Chân châu Ái. Rừng sâu nước hiểm khiến hai cha con không ít lần làm mồi cho thú hoang. Tồn Thành dặn dò Thủ Trừng rằng: “Hai cha con ta đi chuyến này, ta chỉ e điều xấu nhất xảy ra là một trong hai cha con ta mất mạng nơi cùng cốc này nhưng chúng ta đã tới được đây rồi, con hãy gắng lên, chỉ còn chút đường nữa thôi, chỉ một chút nữa thôi.”

Thủ Trừng mắt nhắm tịt trên vai cha. Tồn Thành chẳng thể cầm nước mắt cố gắng gọi con trai tỉnh dậy mà không thấy thưa. Từng bước chân nặng trĩu, một tay giữ lấy con trên lưng, một tay chống gậy qua khe suối nước lạnh toát mà rợn người ghê gớm. Đôi chân trơ khung xương khẳng khiu như những gióng tre ghép lại run lên bần bật khiến mảnh khố tàn tạ như sắp rụng rơi xuống mặt nước. Tồn Thành nhìn thấy một cây sung rừng quả chín đỏ rực cả gốc cây. Tồn Thành tiến tới, có tiếng vo vo quanh tai rồi trời đất như tối sầm lại, cả hai cha con ngã khuỵu dưới gốc cây mà không một lời thảng thiết.

Trời đã về tối sẫm, khung cảnh hoang vu của chốn rừng này càng khiến người ta thêm kinh hãi. Tiếng gầm rú của những con sói hoang, lạo xạo trong rừng là âm thanh từ bọn rắn chuông, rắn hổ. Đâu đó có tiếng gà rừng quang quác xé tan màn đêm. Giật mình, Tồn Thành tỉnh dậy trong mơ màng, người ê ẩm ngơ ngác nhìn xung quanh. Một sự im lặng đến sợ hãi. Chỉ có tiếng thở thoi thóp của đứa trẻ nằm bên. Dù cố gắng đứng dậy nhưng cơ thể như cả nghìn núi đè khiến Tồn Thành lại kéo đôi chân run rẩy kia xuống.

Tồn Thành tiến sát lại gần con trai mình thủ thỉ vào tai nó mà mắt lệ nhòa:

- Con trai à! Chúng ta được cứu rồi!

Nói rồi, có bóng người tiến lại gần. Đó là một thụ nữ tuổi chạc tứ tuần, dáng người thấp lùn, mặt rỗ chằng rỗ chịt. Chẳng có chút sợ hãi, Tồn Thành hỏi:

- Là bà đã cứu hai cha con ta?

Chẳng nói chẳng rằng, bà ta lấy chút nước ấm rót vào một cái chén và đặt trước mặt Tồn Thành là hai quả đào rừng. Tồn Thành nhận lấy và chưa khỏi tò mò:

- Bà là ai? Sao lại không nói gì với ta? Đây là đâu, ta muốn tìm đường về huyện thành huyện Cửu Chân.

Nói xong, bà ta vẫn không hề mở lời khiến Tồn Thành bắt đầu thấy hậm hực:

- Bà bị điếc hay bị câm vậy?

Bà ta vẫn cười, rồi có tiếng người đàn ông ầm ầm rền vang vào tai Tồn Thành:

- Bà ấy bị điếc từ nhỏ. Không thể nghe thấy nhà ngươi nói được gì đâu.

Tồn Thành, nhổm người dậy ngước mắt lên nhìn dưới ánh trăng hắt vào là người đàn ông thấp lùn, miệng lớn, râu rậm. Tay ông cầm một con dao quắm, chuôi dài chừng ba thước. Mặt dữ dằn như báo cọp, giọng lại rền vang bên tai:

- Hai cha con nhà ngươi người từ đâu đến mà lại đi qua lối này. Chốn này đâu phải chỗ để con người qua lại?

Tồn Thành thều thào:

- Thưa ông! Cha con tôi đây cũng bước cùng đường mới ra thế này. Kể ra thì dài lắm, thật cực chẳng đã đã tới nơi này bị ra thế này. Ta thì chẳng hấn hề gì chỉ tội cho con trai ta. Mong hai vị cứu lấy con ta.

Nói rồi, Tồn Thành khóc nấc lên.

- Trời yên bể lặng bỗng một ngày, cả nhà ta bị giết. Thật là căm phẫn lắm thay.
Ông lão hỏi:

- Vậy là cớ làm sao? Mời anh uống chén nước ấm này. Đây là nước cây đinh lăng. Xong rồi uống thêm chút nước cháo này. Cậu bé sẽ không sao đâu. Mấy vết sưng kia là do ong bò vẽ đốt. Lão có cây thuốc này đã cho cậu bé ấy uống rồi. Anh cứ yên tâm mà dưỡng sức.

- Cảm ơn ông nhiều lắm. Ta với ông không quen không biết, cớ sao lại cứu ta?

Ông lão cười lớn:

- Thấy chết không cứu ấy là tội lớn lắm. Vợ chồng ta quanh năm lên rừng chặt cây, hái lá. Thấy con sóc, con thỏ bị thương còn chẳng lỡ đem thịt mà còn đưa chúng về chăm chút. Lòng nào lại không thể cứu đồng loại.

Tồn Thành giọng run run:

- Thật là không gì có thể báo đáp. Nãy giờ trò chuyện mà chẳng hay tên ông lão và bà nhà đây?

Lão cười lớn, râu rung lên bần bật, vết chân chim hai khóe mắt hằn sâu:

- Lão đây họ xưa họ Nùng, ngày quan sứ Tống Bình về châu này, lão lấy họ Lý. Tên ta là Do Trị. Bà nhà ta là Lô Thị.

Tồn Thành nghe danh lấy làm thảng thốt:

- Sao ông lại đổi thành họ Lý?

Lão chẳng một chút đắn đo, lớn giọng khiến Tồn Thành giật mình:

- Ta ư? Nhà ngươi cứ nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Sau này rồi nhà ngươi rõ.

Uống xong chén nước cùng chút nước cháo. Tồn Thành thấy đầu nặng như vạn búa đập, chân tay bỗng cứng đờ rồi lịm đi.

Sáng sớm ngày hôm sau, tiếng trẻ con gọi lanh lảnh bên tai khiến Tồn Thành tỉnh giấc.

- Cha ơi. Cha ơi! Cha ơi. Cha tỉnh lại đi cha.

Nước mắt Thủ Trừng khiến khuôn mặt gầy gò của bé càng thêm nhem nhuốc. Thủ Trừng chẳng thể dứt hơi liên hồi gọi cha. Mặt nó lấm lét nhìn xung quanh rồi thét lên thật to, nó gục mặt vào vai cha rồi rúc rúc dụi để lau đi hai dòng đang đẫm nhòe trên khuôn mặt nó.

Cánh tay Tồn Thành nhẹ nhàng ôm lấy con trai rồi nhẹ nhàng nói:

- Con trai à! Chúng ta sống rồi!

Thủ Trừng vẫn nức nở gọi cha, Tồn Thành siết chặt lấy con, cảm từng tiếng thở và nước mắt của con trai. Trái tim Tồn Thành như đập dồn dập khiến chàng thở gấp gáp hơn. Anh chàng đứng bật dậy, ôm chặt lấy con, luôn miệng ghé vào tai Thủ Trừng: “Ơn trời cao, nhờ hồng phước của ông! Cha con ta được sống rồi!”



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Chương 1.3 Chí lớn tương phùng

Có tiếng mở cửa, ánh sáng le lói xiên qua kẽ lá rừng rọi thẳng vào chỗ cha con họ Đỗ kia đang nằm. Một chàng thanh niên cao lêu nghêu, đôi chân thẳng tắp như hai ống tre, dáng người mảnh khảnh, đầu búi củ hành nhô cao. Thủ Trừng nức nở trong lòng cha, miệng còn vương vài giọt nước khoe với cha:

- Cha ơi! Chú này, sáng cho con ăn cháo, còn có cả quả ngon lắm.

- Anh là…

- Tôi là Do Độc, làm bổ đầu huyện Cửu Chân. Ngày qua rẽ qua nhà thăm bố cái tôi thấy cha con anh bị ong đốt bên suối nên đã đưa anh về đây.

Tồn Thành nhìn lại một lượt từ trên xuống dưới anh ta, rồi ấp úng hỏi:

- Anh là, có phải là…

- Đúng rồi. Hai người đó là cha mẹ tôi. Cha tôi là thầy lang, người ta vẫn gọi là Lý Lang Mộc. Cũng thật may cho nhà anh và cậu bé.

Dáng đứng cao lớn, mặt mày khôi ngô như tranh vẽ khiến Tồn Thành không khỏi bỡ ngỡ. Duy chỉ có đôi mày rặm giống ông lang Lý kia, Tồn Thành thắc mắc:

- Lão lang Lý và bà Lô Thị kia trông thật khác.

Do Độc rút búi hành xõa tóc, rồi cười lớn:

- Quả nhiên, quả nhiên. Ta hiểu ý anh. Ta là con cha mẹ ta. Ấy vậy mà bao nhiêu kẻ rèm pha nói này nói kia khiến cha ta chẳng thể ở lại huyện thành chữa bệnh cứu dân. Mẹ ta bị câm điếc, ấy lại mang thêm cái tiếng ấy thật là tủi hổ mà.
Tồn Thành vẫn còn lấn cấn:

- Quả thực ta cũng không thể nhận ra.

Do Độc, ngồi xuống chiếc chõng còn vương đầy bụi rừng, giọng từ tốn với Tồn Thành:

- Cha ta Lang Mộc là người có y thuật uyên thâm. Ngày trước, Bố Cái đã từng mời cha ta làm lang trung quân khi mới mười bảy tuổi. Khi Phùng An bị diệt thì cha ta về trú lánh nơi huyện nghèo châu Ái này. Mẹ ta là người phụ nữ vùng Hoan di dân để tránh cái đói lũ năm ấy gặp cha ta. Vì lòng mến mộ mà bà nguyện ở lại với cha ta. Sinh ra ta mà cả cái thành Cửu ấy không tin ta là cốt nhục của cha ta. Lớn lên mỗi ngày ta một khác, từ cái khổ người cho đến khuôn mặt ấy nên cha ta phải đóng cửa tiệm thuốc về đây. Ngày ngày rong ruổi trên chiếc xe ngựa đi khắp Ái này bốc thuốc chữa bệnh cứu người, chẳng màng gì bổng tước, tiền tài.

Tồn Thành nghe như thông lỗ tai, mắt được rửa nước thần. Giọng thảng thốt:

- Vậy ra là… Quả nhiên phi phàm. Đêm qua, ta nghe giọng ông lão sang sảng thật chẳng giống kẻ phàm. Năm nay anh bao nhiêu tuổi rồi?

- Chẳng giấu gì anh. Sang tháng ba này mới tròn đôi mươi.

- Dáng dấp thư sinh nhưng đôi mắt phượng hoàng, mày báo cọp cũng thật lạ thường. Hai chục tuổi mà đã là bổ đầu huyện Cửu Chân này, chắc hẳn không phải tầm thường.

Do Độc cười lớn:

- Anh quá khen rồi. Huyện này, quan tước luân chuyển liên tục. Kể từ ngày Mã Tống làm quan sứ Giao Châu, dăm lần bảy lượt thay đổi quan sứ, ấy là bấy lần đổi thay bọn tay sai. Tên huyện lịnh ở đây cũng là tay sai của quan sứ Tượng Cổ. Trong vùng này duy chỉ có nhà ta họ Lý. Cũng là vì mang họ Lý, có chút nghệ công nên được gọi vào nha môn. Hai năm trước ta là lính, nay mới được cất nhắc làm bổ đầu…

Hai người hàn huyên từ sáng cho đến tận trưa. Do Độc lôi bình rượu quý dưới lòng đất từ sau bếp lên, rồi bắt lấy con gà mà nướng lên thơm lừng. Hai người ngồi với nhau, bày tỏ chí khí của mình ra khiến người kia hết thảy kinh ngạc. Tồn Thành hỏi:

- Do Độc tráng trí anh hùng. Bấy lâu ta đi tìm bấy lâu mới có người hay như vậy. Tại sao anh lại làm bổ đầu mà không phải là một tướng lĩnh trong quân?

- Nói ra thì chỉ sợ anh cười. Ta vốn không quen cầm gươm giáo, lại chẳng có cái uy của kẻ cầm quân. Chỉ thấy việc bất bình trong thiên hạ mà cứu giúp, làm bổ đầu cũng có thể thể hiện cái ý nguyện của mình vậy.

Tồn Thành rốc hũ rượu vào miệng, rồi cười một cái thật lớn:

- Cái chữ bất bình nghe thật hay. Nào chúng ta cùng hết hũ rượu này. Ta xưa còn nhỏ nghe chuyện Bố Cái mà thật ngưỡng mộ. Vì dân này, vì đất này làm trai tráng đâu thể cứ mãi cúi luồn dưới cái khinh rẻ của kẻ ngoại bang, người không cùng giống dòng. Chỉ vì cái phận nhỏ, làm chài dân thiện lương mà vác tội lớn với kẻ trên mà chưa thể làm gì được. Thật đáng tủi hổ.

Hai cha con họ Đỗ quá lâu rồi không được một bữa no chứ há chi đến rượu thịt ê chề như vậy. Ấy nên Thủ Trừng ăn uống no say lăn quay ra ngủ từ lúc nào chẳng hay. Tồn Thành trong cơn say ngẫu hứng:

“Tôi anh đôi đứa chẳng quen

Bão mưa nắng gió bao phen giữa rừng

Tôi anh qua vẫn người dưng

Đói no bạo bệnh cũng mừng cũng lo

Nay đây cơm nếp làm giò

Rượu thơm gà nướng ấy cho lễ thần

Mong được cứu nước giúp dân

Hai ta nguyện ước đôi thân chẳng rời!”

Do Độc vui khôn tả xiết:

- Tồn Thành thơ hay. Nay gặp được người chí cốt, sẵn có rượu thịt đây chi bằng chúng ta kết nghĩa anh em suốt đời này. Thân trai này đâu chỉ mãi cúi đầu.

Tồn Thành mừng rỡ, ôm lấy vai Do Độc:

- Được. Ta nay hăm sáu là anh. Do Độc trẻ hơn là em. Thủ Trừng con trai ta nay gọi em là chú. Không mong như Lưu – Quan – Trương, chỉ mong chí lớn toại lòng, giúp dân cứu nước. Ly này tế trời, tế đất. Cạn ly này anh em ta mãi mãi đồng lòng.

Nói xong, hai người cùng uống cạn chum rồi ném nó lên cao rơi xuống làm cái xoảng khiến trâu lợn nghe thấy mà kinh hãi, đất rung lên, cây cối quanh nhà lá rụng tả tơi. Hai người dùng dao khía lên vai hai chữ “Huynh đệ” rồi lấy máu ấy hòa với rượu cùng cạn hết.

Ngày rằm tháng ấy, Do Độc soạn bổn lễ gồm chín hộc gạo, chín con gà sống cùng chút vàng bạc tích góp được tiến cử Tồn Thành với huyện lịnh. Tên huyện lịnh họ Lý nhận Tồn Thành làm nha môn tướng. Do tính tình thẳng thắn mà lại dễ nóng giận, Tồn Thành không ít lần khiến tên huyện lịnh mất lòng nên Tồn Thành bị đám quan lại ở huyện Cửu Chân xa lánh. Ngày ngày người người qua lại chỗ Do Độc nhưng hễ đến cả tuần chỉ có vài tên lính đến báo tin qua nhà Tồn Thành.

Thấy điều không hay nên Tồn Thành bàn với Do Độc rằng:

- Này em trai. Chúng ta cứ như thế này ta e không được rồi. Em ở đây có quen có biết, mọi người còn hay qua. Còn ta thì ngày ngày luyện võ cho mấy trăm tên lính xong rồi lại về nhà, chẳng giao du được với ai. Như vậy có hơi hoài nhãng quá không?

Do Độc thương Tồn Thành lại nói:

- Anh à. Em đây cũng chẳng giấu gì. Ngày ngày kẻ qua, người lại qua chỗ em cũng chỉ toàn là những kẻ chẳng ra gì. Kẻ mở cửa hàng, người chốn tửu lầu, hạng cờ bạc, chủ nợ, đám quan lại cậy nhờ. Em còn trẻ, chẳng biết giải quyết sao. Huyện lịnh thì lại ỉ hết việc cho đám dưới chúng ta, chỉ ngồi một chỗ chờ đợi những kẻ ấy dâng biếu chút bạc hư. Nay anh có ý gì hay không?

Tồn Thành đắn đo:

- Ta vào đây cũng đã được ba tuần trăng rồi. Tên huyện lịnh này chẳng khác gì tên họ Lý ngày trước ở Yên Hưng, có ngày rồi ta cũng bị đè đầu mà chết như dân Đỗ Gia Trang. Chẳng thể như thế này mãi được em ạ. Hay là ngày mai chúng ta bái biệt song thân phụ mẫu rồi đến Nhật Nam tìm Đỗ Thứ sử để nương nhờ chờ thời cơ cứu dân giúp nước.

Do Độc chẳng lấy một nghi ngại, gật đầu đồng ý ngay. Sớm hôm sau, chẳng để lại một lời hai người rời khỏi nha môn huyện Cửu Chân đi về phía tây – huyện Nhật Nam để nương nhờ họ Đỗ. Thật không may, vừa đến nơi thì Đỗ Thứ sử đã bệnh nặng. Tồn Thành nhận là người con họ Đỗ đến thăm hỏi, bước vào phủ nơi Đỗ Thứ sử đương nằm chỉ thấy thoi thóp một người đang nằm trên giường, bên cạnh hông vạt áo kéo lên làm lộ ra hình xăm Long ngư. Chưa kịp nói lời nào thì tiếng khóc cất lên xe lòng từ giọng mấy người phụ nữ:

- Ông ơi! Xin đừng bỏ tôi đi! Cha ơi! Cha ơi!

Đâu đó từ phía cửa phủ vào là đám quan lại, vào phủ phục dưới trướng, giọng dứt lên từng cơn:

- Ối ơi là hỡi ơi. Đại nhân ơi! Đại nhân. Đại nhân ra đi bỏ lại đây Ái Châu dân khổ lầm than. Tấm gương soi sáng cho bọn quan chúng tôi. Người sao đã vội vàng đi như vậy?

Thấy vậy, Tồn Thành xin lui.

Cả thành Nhật Nam khi ấy tang thương, tấp nập toàn là xe ngựa phủ vải trắng. Do Độc và Tồn Thành phải nằm nghỉ nơi chuồng ngựa vì chẳng có lấy một quán trọ và nhà dân nào còn dư dả chỗ. Nào đám quan lại các huyện, nào là nha môn, tướng soái khắp Ái Châu này về tá túc để thăm viếng. Rồi cả những kẻ làm ăn, những chủ quán rượu, sòng bạc, thanh lâu nổi tiếng khắp Ái Châu này cũng đoàn đoàn xe xe liểng kiểng nào là rượu, là vàng bạc, vải trắng phủ đầy xếp hàng dài từ ba phía Cổng thành Nhật Nam.

Tồn Thành chỉ dám dâng nén nhang từ xa bái lạy viên Thứ sử xấu số kia. Tồn Thành bàn với Do Độc:

- Nay trời xanh đã ngả vàng nâu. Hai chúng ta tá túc lại vài ngày rồi chờ bái kiến tân Thứ sử vậy.

Hai người ngậm ngùi rồi bàn với nhau thì Thủ Trừng từ đâu chạy tới hát bài vè:

“Ve vẻ vè vè ve

Cái vè Châu Ái

Ái thê thì sái

Nam phái suy tàn

Cả thảy một bàn

Toàn là nữ nhân

Cái chết kệ gần

Nhường phần cho ai

Rể phần tướng soái

Bĩ cực nhân tài

Ghế để cho ai

Châu Ái ái châu.”

Nghe làm lạ, Tồn Thành bịt miệng cậu bé lại. Giọng nghiêm khắc:

- Con im lặng ngay. Con nghe được bài đó ở đâu?

- Dạ, đám trẻ con trong thành đứa nào cũng hát thế nên con hát theo thôi cha.

Do Độc nói với Tồn Thành:

- Ngày trước em có nghe nói Đỗ Thứ sử không có con trai. Các tướng soái, cận hầu đều là con rể và đám con cháu Thất trắc phu nhân Mã Thị. Mã Thị này có chút gọi là dữ dằn nhưng chẳng thể như Lã Hậu hay Võ Hậu. Phen này, sẽ có loạn lớn rồi.
Y lời Do Độc nói, một tháng sau khi Đỗ Thứ sử qua đời, các con rể của Đỗ thứ sử thi nhau bành trướng từ các phiên trấn thành trì của mình tranh giành đất đai. Ở Giao Châu khi ấy chẳng có chút động tĩnh nào để dẹp loạn ở Ái Châu. Tồn Thành nói với Do Độc:

- Quá tháng rồi. Ái Châu này đất nhỏ hẹp, thành trì không nhiều. Đất không chủ, các phiên trấn giành giật nhau từng chút đất. Trời chẳng thương nên ta mới em mới thế này. Ngày qua ta đi nghe ngóng thì đám quân Cửu Chân đang cát cứ ngay phía Đông thành Nhật Nam. Ở đó, quân lính ngày trước ta và em rèn vẫn là những người đó. Nay ta về liệu có được hay chăng?

Do Độc do dự:

- Thôi cực chẳng đã. Phen này gắng công lớn mà lập thân.

Nói xong, Do Độc tốc mã chạy ra ngoài thành chạy về phía Đông nơi quân Cửu Chân đang đóng dâng lên diệu kế chiếm lấy Nhật Nam. Con rể thứ hai của Đỗ Thứ sử là Đoàn Uyển cầm đầu cánh quân tiếp nhận ngay Do Độc và lệnh cho Tồn Thành trong ứng ngoài hợp chiếm lấy Nhật Nam.

Hai ngày sau, Tồn Thành và đám huynh đệ gây loạn trong thành. Trong lúc đang giải quyết Tồn Thành, nhân quan giữ thành không để ý Do Độc cùng năm trăm lính xông thẳng vào thành, bắt giết viên quan giữ thành. Lúc bấy giờ, đoàn quân của Đoàn Uyển từ phía sau khoảng năm nghìn tướng sĩ hừng hực chạy vào thành giết chết Mã Thị và hai người em rể. Đoàn Uyển tạm quyền nắm giữ toàn bộ Ái Châu. Các phiên trấn khác đều dâng thư hàng. Ái Châu được toàn vẹn về tay Uyển.

Bấy giờ, Tồn Thành và Do Độc được nắm quyền binh Nhật Nam và Cửu Chân. Tồn Thành bàn với Uyển: “Nay Ái Châu đã quy một mối. Chỉ là cái họa Giao Châu đang đợi ngài đó.”

Uyển nghĩ một hồi thì hỏi Thành: “Ý ngươi là quan sứ Tượng Cổ?”

Thành đáp: “Đúng rồi đấy.”

Uyển vẫn chưa thông thoáng đầu óc thì Thành tiếp lời:

“Đại nhân xem. Trước Đỗ Thứ sử lập công hiển hách nên được giao đất này. Phía Đỗ thứ sử đất Trường Châu, Dương thứ sử Hoan Châu, Vương thứ sử Phong Châu đều giành đất mà xưng nhưng đều được các quan sứ thừa nhận chỉ sau có một vài tuần, chậm trễ thì cũng chỉ một tháng. Bây giờ ngài giành đất này đã bấy lâu mà không được Tống Bình thừa nhận há chẳng phải là cái gai trong mắt ấy sao.”

Uyển tỏ ra lo lắng, rồi hỏi ý kiến Thành:

- Thế ngươi có mưu gì hay chăng?

- Mưu thì Thành tôi chẳng có, chỉ có kế hèn này xin đại nhân xem xét.

Uyển sốt sắng:

- Được. Nhà ngươi nói xem.

- Phía bắc Giao Châu, đất hiểm trở là đất người man, thượng nguồn dòng Cái, dòng Đà là đất người Nam Chiếu. Phía tây Tống Bình là khoảng đồng bằng mênh mông, qua sông Mã là đất của Ai Lao. Những đất ấy xưa nay không hề ưa các đời quan sứ. Nay Nam Chiếu hùng mạnh lấy đất Thục của vua Đường. Dân Man chiếm đến đất Quang, Chiêm châu Phong. Chi bằng ta sai sứ đến người người man thuyết phục họ cùng ta đánh Tống Bình, các Châu khác chỉ có Ái Châu ta là cận kệ Tống Bình nhất. Phía nam ta là đất Hoan, thứ sử nơi ấy cũng là dòng tông đất Nam ta. Ta thử viết thư thăm dò xem thế nào.

Uyển ưng lời Thành lắm liền cho người sai sứ đến đất Phong để khích dân man xuôi sông Đà, sông Cái về Tống Bình. Chuẩn bị quân lực được ba tháng thì quân man động đã chiếm toàn bộ Phong Châu, các cơ mi xung quanh Tống Bình và cả đất Đường Lâm cửa ngõ Tây Bắc Tống Bình. Các quân lính từ vùng Ái do Tồn Thành và Do Độc thống lĩnh đã chuẩn bị kỹ càng chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Chương 1.4 Nhiễu động Tống Bình

Lúc bấy giờ tại Tống Bình, trong lúc bộn bề, Tượng Cổ mới nhận ra là dưới trướng hắn còn có một vị tướng dũng mãnh người Việt họ Dương tên Thanh. Dương Thanh dòng dõi hào trưởng, từng là thứ sử Hoan Châu. Nhưng Tượng Cổ rất e ngại người này vì giữa Tượng Cổ và họ Dương vốn đã hiềm khích từ trước. Nay trong lúc gian nguy, hắn cũng chỉ còn trông chờ vào họ Dương.

Dương Thanh là tông thất chính dòng của họ Dương, nhiều đời làm thứ sử tại Hoan Châu. Sinh ra và lớn lên trong gia đình quyền cao chức trọng nhưng tính tình ông rộng rãi hào sảng lại kết giao với rất nhiều bạn bè ở khắp nơi, chẳng kể giàu nghèo. Chỉ cần nghe danh ông thì bọn tù trưởng man tộc, các tướng lĩnh, bổ đầu suốt dải đất từ Lâm Ấp đến tận Ái Châu đều kính nể. Tính tình họ Dương thẳng thắn và bộc trực nhưng rất nóng tính. Có lần có một huyện lệnh dâng biếu lễ vật, ông hỏi:

- Năm nay ta thấy dân ở huyện các ngươi thiếu đói vì hạn hán, há sao lại dâng nhiều lễ vật cho ta vậy?

Tên huyện lệnh này lẻo mép thưa rằng:

- Bẩm quan trên, quan cũng như phụ mẫu vậy. Con cái có hiếu dù có ăn khoai sắn cũng để phần cho cha mẹ miếng thịt ngon.

Nói chưa dứt lời, thứ sử họ Dương nổi đùng đùng kéo hắn ra đánh trăm trượng, rồi tước bỏ áo mũ cho hắn về quê và lập tức sai người bán hết chỗ lễ vật ấy mua gạo cứu đói cho dân. Làm thứ sử, họ Dương được lòng dân chúng và trong quân, ông cũng thể hiện được cái uy dũng của mình trong từng trận chiến.

Trong trận chiến với quân Lâm Ấp, Hoàn Vương dưới thời quan đô hộ Triệu Xương, một mình họ Dương xông thẳng xào huyệt của địch bắt sống dăm chục tướng, đứng trên núi Ngự phóng tiễn thiêu trụi cả một quân doanh, ông cùng quân Hoan Châu đánh đuổi cả chục vạn giặc chạy thẳng vào vùng đất của người Chăm phía nam dãy Bạch Mã. Những chiến công hiển hách ấy càng làm cho bọn triều đình phương Bắc càng thêm lo sợ. Dân chúng cả vùng Phúc Lộc, Diễn, Hoan ai nấy đều tuân theo luật pháp Dương thứ sử đề ra.

Dương thứ sử khéo khoan sức dân, nhiều lần dâng biểu quan đô hộ xin giảm nộp thuế, sưu do thiên tai, hán hạn. Ông thưa với các quan đô hộ rằng: “Vùng biên ải như Vũ Lộc, Diễn, Hoan đầu năm nắng hạn, cuối năm lũ lụt. Phía tây là Cao nguyên Ai Lao, phía nam là Hoàn Vương Lâm Ấp, phía đông lũ giặc biển Chà Và quấy nhiễu, dân chúng đói khát khắp nơi thấy mà thương mà tội. Vừa trải qua cuộc chiến đẫm máu, cây chưa mọc được lên do máu người còn vương, sức người còn chưa kịp hồi. Nay dâng biểu sớ kính quan trên thấu cho nỗi khổ dân tình, thư sức dân mà miễn thuế, sưu cho dân chúng các Châu Vũ Lộc, Diễn, Hoan trong vòng ba năm. Năm năm giảm sưu, giảm thuế, đến khi dân đã đủ ấm mặc, cơm đủ nuôi binh thì lúc ấy triều đình không cần nhắc nhở, là thứ sử Hoan Châu, ta cũng tự nguyện cống nộp cho triều đình đầy đủ.”

Cho đến đời quan đô hộ là Bùi Hành Lập, hắn thấy dị vật phong phú, sản vật phì nhiêu hắn liền bắt Dương thứ sử cống nộp nhưng ông đã nhiều lần từ chối. Không thể làm gì được, Bùi Hành Lập ấm ức trong lòng, dặn bọn quan lại ở Tống Bình rằng: “Sắp tới đây Lý Tượng Cổ là tông thất hoàng gia, các ngươi cố gắng giúp ông ta trị tên thứ sử châu Hoan ấy. Tiếng hoàng gia tông thất ấy mới có thể “dạy bảo” được người ấy. Ta đã lập sớ cho triều đình phong hắn làm thượng tướng thống lĩnh hai vạn binh Giao Châu này. Nhưng thực chất là chỉ để dụ hắn về Tống Bình để dễ bề kiểm soát. Ta nay về kinh nhận chức mới, các ngươi hãy cứ an tâm phò trợ Tượng Cổ, sau này rồi ta sẽ cất nhắc các ngươi.”

Ấy nhưng đến khi Tượng Cổ phụng mệnh đến Tống Bình, Dương Thanh năm lần từ chối yết kiến, hai năm không cống lấy một lạng thóc, hay một tấc vải nào. Tượng Cổ lại không nghe lời bọn Bùi Hành Lập, hắn sợ rằng Dương thứ sử có trong tay trọng binh thì càng khó có thể kiểm soát được ông ta. Nhưng rồi có tên huyện lịnh năm nào bị Dương Thanh đánh thị cáo vì tội đút lót quan trên đến chầu kiến Tượng Cổ mà thưa rằng:

- Bẩm lạy quan trên. Con trước đây huyện lịnh huyện Hoài Hoan, đang lúc mùa màng tốt tươi, dân chài kéo cá đầy ắp các thuyền, con quan bé cũng chỉ dám tuân mệnh vua nào có lòng khác. Thuế sưu con nộp đủ đầy, ấy vậy mà hắn kêu con là sao lại nộp ít vậy, dân no kềnh bụng, quân sĩ say sưa sức đâu mà đánh giặc làm ăn. Rồi hắn biển thủ quân lương, thuế sưu châu ấy, khiến quan các vị quan đô hộ trước đâu có thu được cắc nào đâu. Hắn kêu nuôi dân, dưỡng binh ấy nhưng mà ai mà hiểu được hắn ta làm gì.

Tượng Cổ quát tháo:

- Nhà ngươi nói láo. Ta còn lạ gì nhà ngươi. Bay đâu mang ra chém.

Nói rồi một đám áo khăn lếch thếch, trong áo lụa, ngoài quấn khăn kín đầu quỳ lậy bên ngoài phủ đô hộ mà lớn tiếng rằng:

- Mong quan lớn minh xét. Khai ân cho Thừa huyện lịnh.

Thấy láo nháo, bọn lính ra lôi tất cả bọn chúng vào phủ mà tra hỏi. Tượng Cổ hỏi:

- Các ngươi là ai, sao lại xin tha tội cho hắn?

Một tên lắp bắp, đầu gối lê tới gần:

- Bẩm quan đô hộ, bọn tội dân chúng con đây trước là quan huyện lịnh, hương trưởng vùng Hoan, Ái, từ khi họ Dương kia làm thứ sử, hắn kiêu ngạo ganh ghét tụi con nên hắn đuổi quan, cắt hết lương bổng. Bọn con phải khổ sở lắm mới ra được Tống Bình, chờ ngày quan lớn đến đây.

Có tên Liễu tá ghé tai Tượng Cổ thì thầm: “Bọn này xưa bị Bùi đại nhân xua đuổi, nhưng tiểu nhân thấy rằng, để trị được họ Dương ta cũng có thể dùng đến bọn này đại nhân ạ. Theo ngu ý của tiểu nhân, ta cứ phong cho bọn này làm giám quân ở Tống Bình nhưng không giao thực quyền cho bọn chúng. Rồi ta xin mệnh vua ban để dụ họ Dương về Tống Bình mà lợi dụng bọn này trừ khử hắn. Cứ kế ấy mà làm, tiểu nhân dám chắc họ Dương sẽ trong sự kiểm soát của ta.”

Tượng Cổ gật gù và nói với bọn đang quỳ dưới trướng rằng:

- Các ngươi quả nhiên vô tội, nghe các ngươi kể mà ta đã hiểu được họ Dương ấy. Thôi được, ta sẽ sớm phục quan cho các ngươi nhưng có điều họ Dương đang giữ đất ở những chỗ ấy, ta sẽ tạm thời thu nạp các người làm giám binh. Sau này tùy theo công lao mà được thăng chức, nhận lương hưởng.

Bọn quỳ lạy dưới trướng đồng quỳ gối xuống mà lạy:

- Đội ơn quan lớn.

Sau đêm ấy, Tượng Cổ cho người ngày đêm phi ngựa về Trường An dâng biểu xin thánh chỉ phong cho Dương thứ sử làm tướng Giao Châu. Vốn là dòng dõi tông thất nhà Đường nên chỉ trong vòng một tháng, họ Lý đã có được thánh chỉ trong tay và lập tức đi triệu hồi Dương Thanh về Tống Bình. Lý Tượng Cổ còn mang đoàn rước kiệu long trọng đến Hoan Châu, hắn cũng đích thân dẫn chỉ tới hòng thể hiện sự tôn trọng đối với Dương Thanh để Dương thứ sử mềm lòng.

Được tin báo, Dương Thanh mở cổng thành nghênh tiếp, hai bên là hai hàng lính nghiêm trang, cổng thành thênh thang chỉ có lính mang cờ thêu chữ Dương lớn đứng suốt dọc hai bên dài đến cả dặm đường. Họ Dương ra tiếp đón quan thứ sử và thánh chỉ cách cổng Bắc của thành mười dặm và có khoảng hai trăm lính áo vải, đầu quấn khăn đỏ theo sau. Dương Thanh dáng người to lớn, mình cao bảy thước năm tấc, mày quăn như mày rồng, đôi mắt tựa cọp uy nghi, tay cầm cây thương dài tám thước. Mỗi lần Dương thứ sử múa thương ánh bạc chói lòa, thương lao vun vút như tên bắn, uy lực vô cùng. Cây thương khắc dòng chữ nổi: “Nam thiên anh hùng tướng” đỏ rực, sau lưng mang cờ thêu dòng chữ nét tựa rồng cuốn: “Thanh thiên Dương tướng”.

Mỗi bước đi của thứ sử nặng tựa cột lim, rầm rầm như vạn lính đang cùng bước. Giọng nói vang vang sấm rền, thứ sử mang trên mình chiếc giáp bằng gỗ nghiến, đầu quấn khăn màu đỏ thẫm, cưỡi trên con huyết mã oai nghiêm dữ dằn khiến cho Tượng Cổ cảm thấy trong mình nóng ran, trời mùa xuân nhưng mồ hôi đẫm áo.

Tới cổng thành, Dương Thanh xuống ngựa, cả đoàn binh quỳ sụp xuống nghe thánh chỉ phong Dương Thanh làm An Nam đô hộ thượng tướng, nắm giữ hai vạn binh Giao Châu, Phong Châu, Phúc Lộc Châu, Trường Châu và được quyền dùng binh các châu Hoan, Ái, Vũ Lục. Dương Thanh cúi đầu nhận thánh ân. Dương Thanh liền lên ngựa và cầm thánh chỉ, cây thương vung lên ánh sáng chói lòa, khiến Tượng Cố và đám tùy tùng kinh hãi, đám lính hô vang:

- Nam thiên anh hùng tướng! Nam thiên anh hùng tướng!

Giọng Dương thanh uy vang, chiếc cung giương lên và một mũi tên trúng một con Đại bàng đang bay từ phương bắc về phía nam. Bọn chim chóc ở rừng cây phía xa nghe tiếng hô dũng mãnh của Dương Thanh mà cất cánh bay từng đàn, từng đàn, nháo nhác bay về phương Bắc.

Tượng Cổ hãi hùng, chỉ dám nhìn về phía rừng ấy qua rèm cửa xe mã trượng. Họ Dương mời Tượng Cổ ở lại vài hôm để rồi theo quan đô hộ về Tống Bình. Bấy giờ, một vị nho sĩ dưới trướng Dương Thanh bàn với Dương Thanh rằng:

- Chủ tướng rời Hoan Châu về Tống Bình e rằng điều không phải? Thứ nhất, quân sĩ Tống Bình là lính Bắc phương. Thứ hai, Hoan Châu không chủ dễ sinh loạn. Thứ ba, họ Lý này e là không có ý tốt với ta. Xin chủ tướng xoi xét.

Dương Thanh cười sảng khoái:

- Ngươi đúng là kẻ nho sĩ nhát gan. Nhà ngươi lo lắng quá rồi. Ta đường đường thứ sử một châu, nay lại có thánh lệnh, binh quyền. Sợ chi lũ đầu voi đuôi chuột. Nhà ngươi nói cũng có lý nhưng trong đầu ta đã có cách để xử trí chuyện này.

Nói xong, Dương Thanh đặt một quân cờ khiến vị nho sĩ ngỡ ngàng và vuốt râu cười lớn:

- Chủ tướng quả là cao cờ. Tại hạ chỉ cần một nước nữa là thắng nhưng chủ tướng chỉ cần một quân cờ ấy đã lật ngược ván cờ. Đại nhân quả là cao tay. Tiểu nho xin bái phục.

Một tháng sau, Dương Thanh mang thánh chỉ cùng con trai thứ Chí Trinh, đám tùy tùng dăm chục người trong gia đình, lũ gia nhân đến Tống Bình nhậm chức và để con trai lớn Dương Chí Liệt ở lại châu Hoan chờ lệnh. Đoàn người của Dương Thanh suốt dọc đường từ phủ thành Châu Hoan đến Giao Châu đều được dân ở những nơi đó đón tiếp nồng hậu. Chẳng thế mà Dương thứ sử cũng rất cởi mở đón nhận lòng thành của mọi người và hứa rằng sẽ giúp mọi người sẽ không bớt đi nỗi lo sưu thuế, gian tham. Đến trị sở Tống Bình, Dương Thanh lập tức chỉnh tề quân ngũ.

Dù là bọn lính phương Bắc nhưng cũng đã đồn trú rất lâu năm ở nơi này cho nên nhiều người đã lấy vợ Giao Châu, xác định bám lại đất của người Nam này. Nhờ thế, Dương tướng quân cũng sớm thu phục được lòng binh. Người xa thì cho về quê dăm ba tháng, người gần thì cho phục dịch tại gia trong lúc đương hòa chiến sự nhưng lúc nào quân doanh cũng ngăn nắp chỉnh tề. Nghe ngóng tình hình chuyển biến không được như ý muốn, Dương Thanh kết giao với đám quan lại và tướng sĩ trong thành trong thành khiến Tượng Cổ càng thêm chướng mắt với bọn quan lại ở Giao Châu, Tượng Cổ bắt đầu trở mặt.

Tháng hai mùa xuân năm Kỷ hợi (819), Tượng Cổ yêu cầu Dương Thanh hội đủ hai vạn rưỡi quân để trực chiến. Dương Thanh hồi đáp rằng: “Hiện nay, chiến sự hòa bình, suốt dọc Vũ Lục, Hoan, Ái dân tình yên ổn, bọn Cao Miên, Chà Và, Lâm Ấp không còn quấy nhiễu; khắp các châu cơ mi, các tù trưởng, hào trưởng đều một lòng hướng về Giao Châu nên bọn Nam Chiếu cũng chẳng lấn tới đất ta. Hiện tại tiểu tướng chỉ cần một vạn quân là đủ. Số còn lại cho về quê thăm nhà, làm nông để nuôi dưỡng sức quân. Há chẳng phải kế hay. Nửa năm nữa, binh đông, lương đủ sức quân dào dào như thác đổ, ấy thì sợ giặc nào.”

Bọn giám quân Giao Châu thì liên tục báo với Tượng Cổ rằng: “Dương Thanh đem lòng phản nên mới lấy lòng binh, rồi đuổi khéo bọn lính bắc về quê, còn lại là lính người nam không thì cũng lấy vợ nam, hắn xua đi ra khỏi Tống Bình để chiêu binh bãi mã cho hắn chờ thời cơ để phản. Lại thêm bọn Chí Liệt ở Hoan, Ái không thể xem thường được.”

Nhiều lần nghe lời rèm pha của bọn giám quân vốn ganh ghét họ Dương, cũng phần vì lo sợ Dương Thanh nắm binh quyền có thể làm loạn. Tượng Cổ lập tức thu binh quyền và chỉ cho Dương Thanh giữ chức mà không có thực quyền. Họ Lý còn bắt Dương Chí Liệt trở về Tống Bình và sai người đến làm thứ sử ở Hoan Châu. Họ Dương cũng không hề có phản ứng gì và ngày đêm thao luyện binh mã.

Tháng ba mùa xuân năm ấy, Dương Thanh đánh thắng quân Chà Và xâm lấn vùng biển Ái Châu, Hoan Châu. Ở Giao Châu, có người lại mách với Tượng Cổ rằng Dương Thanh cố tình đi dẹp giặc ở Ái Châu rồi ở luôn đó có ý định nuôi binh làm phản. Lại có kẻ rèm pha rằng, Dương Thanh để Chí Trinh nắm binh mã trong thành, Dương Thanh ở bên ngoài, trong ứng ngoài hợp để cướp lấy La Thành, lúc ấy quan đô hộ có là thánh thần cũng chẳng thể chở tay. Nghe vậy, Tượng Cổ ngày đêm cho lính bao vây phủ tướng quân, luôn kè kè bên Chí Trinh là một đám lính thân cận của Tượng Cổ, mọi hành động của Chí Trinh đều được những tên này bẩm báo lại với Lý đô hộ.

Tượng Cổ rút hết binh quyền họ Dương, rồi lại sai Dương Thanh đóng quân ở bãi Quần Thần phía nam La Thành, chỉ khi có việc hắn mới gọi Dương Thanh vào. Chí Trinh bấy giờ thấy căm phẫn lắm, anh nói với cha rằng: “Thưa cha. Họ Lý này càng ngày càng không coi chúng ta ra gì. Hắn nhiều lần bắt ép chúng ta làm theo hắn, rồi hắn còn đuổi chúng ta ra cái nơi này, trong tay thì chẳng có binh quyền.”
Dương Thanh không nói lời gì, và ông lại đi một nước cờ khiến cho Chí Trinh ngỡ ngàng, không kịp phản ứng và phải chịu thua. Dương Thanh bình thản mà đáp rằng: “Thời cơ sắp tới rồi con trai.”

Mùa hạ năm Kỷ Hợi (819), nước sông Cái lên cao, họ Dương sai lính đắp đê cao, đào sông dẫn đến các nơi đồng cạn, chăm lo việc dân tình vùng Giao Châu. Bọn Tượng Cổ thì chỉ lo vui chơi ăn uống linh đình trong thành. Buổi chúc thọ của Tượng Cổ, Dương Thanh và một viên Đô áp nha cáo ốm không đến dự buổi chúc thọ của y. Tượng Cổ lấy lòng căm giận lắm, bọn Liễu tá, giám quân lại bày cho kế rằng: “Đại nhân đích thân mang rượu ngon đến nhà hắn mà thăm ốm. Nhân đó rồi trừ khử hắn.”

Thấy thuận tai, Tượng Cổ lập tức cho người ban rượu cho Dương tướng quân, đêm ấy hắn còn đến tận phủ tướng họ Dương để thăm hỏi. Nửa đêm canh ba, hắn cho sục sạo cả La Thành, lính tráng hội đủ phủ tướng quân. Hắn bước vào phủ rồi hẹm giọng:

- Ta nghe nói Dương tướng quân bị ốm, nay đến thăm và tặng thuốc quý, rượu ngon cho tướng quân đây.

Dương Thanh đang luyện võ ở hậu viên vội vàng cởi bỏ mũ áo, giáo gươm về nằm trên giường giả bệnh. Dương thanh sai một tên hầu cận ra tiếp đón quan đô hộ. Tên này thưa với Tượng Cổ:

- Bẩm quan lớn. Tướng quân nhà chúng con ốm mệt suốt hai ngày nay. Hiện đang nằm trong giường, bệnh không thể ra ngoài đây đón tiếp. Mong quan lớn lượng thứ cho. Chủ nhân con cũng xin được mời quan lớn vào trong ấy.

Tượng Cổ lập tức cho người mang thuốc và rượu vào trong. Tượng Cổ gọi Dương Thanh vài lần nhưng không thấy thưa, hắn nghĩ rằng Dương Thanh ốm mệt nên không thể dậy được. Hắn tỉ tê: “Dương Thanh à, nhà ngươi mà có mệnh hệ gì thì An Nam này biết tính thế nào? Bọn Cao Miên, Nam Chiếu đang nhăm nhe, nhà ngươi hãy sớm lành bệnh mà lo cho bách tính An Nam.”

Dương Thanh không động tĩnh gì, Tượng Cổ ra hiệu lệnh để mang thuốc bổ và rượu ngon vào trong. Bỗng xuất hiện một cô gái tuổi ngoài đôi mươi xinh đẹp tựa cô tiên tay bưng chén thuốc đi qua họ Lý. Hắn ngẩn ngơ nhìn cô ấy, gương mặt thanh tao, lông mày lá liễu, hai mắt buồn, khuôn mặt thanh tú, lại thêm nước da trắng ngần e lệ trước họ Lý. Hắn cứ bần thần như lạc vào trong cõi mơ. Hắn giật mình khi Dương Thanh trở người quay mặt về phía Tưởng Cổ, mắt trợn trừng trừng. Tượng Cổ sợ hãi, ngã ra phía sau. Hắn lùi lại và chạy thẳng về phía cửa căn phòng. Một tên lính bất cẩn làm vỡ cái niêu gà tần, hắn sợ tái mét mặt. Tượng Cổ ra lệnh cho bọn lâu nhâu, giọng sợ hãi:

- Về phủ, về phủ ngay.

Dương Thanh, ngồi dậy cười lớn. Có tên gia nô đến bẩm báo:

- Bẩm ông. Cái niêu gà tần vừa rơi, con chó nhà ta ăn phải, chẳng may nó lăn ra sùi bọt mép rồi chết.

Dương Thanh sai người đổ hết những thứ ấy đi và mang hũ rượu ấy ban cho bọn giám quân. Lũ giám quân sợ hãi nghe thấy vậy kẻ thì liều mình uống, kẻ thì sợ hãi chạy trốn khỏi Giao Châu. Bấy giờ, bọn trẻ nhỏ ở Giao Châu hát vè rằng:

“Ve vẻ vè ve

Cái vè quan hớn

Quan thì rất lớn

Tướng thì ốm o

Có chút quà cho

Bụng no quà biếu

Tướng quân thì thiếu

Chẳng biếu thứ gì

Lại được dân di

Quan đi đến phủ

Dao găm thủ áo

Báo cáo sự tình

Bọn lính bưng rượu

Định liệu ra tay

Ai ngờ ngủ say

Trở tay trở gối

Mắt thì thô lố

Làm bố quan e

Ấy rồi ù té

Quan lớn tè quần.

Ve vẻ vè ve.”

Sau khi Tượng cổ rời khỏi phủ, Dương Thanh lập tức cho người mang bình rượu quý thưởng cho giám quân phía nam thành. Một lát sau có một tên lính quay lại phủ bẩm báo rằng:

- Bẩm Đại nhân, có hai tên giám quân sau khi uống rượu đã phun máu ra chết ngay tại chỗ. Hiện một đám giám quân khác thấy vậy đã bỏ trốn. Còn lại chỉ còn vài tên thôi ạ.

Dương Thanh tức tốc đến phía nam thành, Dương Thanh quát lớn:

- Kẻ nào đã cho độc vào rượu này?

Nói xong Dương Thanh đập vỡ tan hũ rượu mà khóc lớn: “Ơi các vong linh huynh đệ, thật là tội nghiệp cho các ngươi. Ta thề ta sẽ trả thù cho các ngươi!”

Bọn giám quân, lính tráng lùi ra xa, rượu từ hũ vỡ chảy đến đâu, mặt đất sùi lên những bọt trắng, một chốc đám có xanh đã thành đám cỏ đen úa. Dương Thanh sai người chôn cất chu đáo hai tên giám quân. Dương Thanh rút gươm nói lớn:

- Ta sẽ báo thù cho các huynh đệ. Các người trung thành với ta nghĩa là trung thành với đất An Nam, với triều đình thì sẽ chẳng sợ thiếu cơm ăn, áo mặc. Gia đình các người cũng chẳng sợ bị kẻ nào hăm dọa.

Bọn giám quân co rúm người rồi vội quỳ sạp người xuống mà sợ hãi:

- Chúng tôi xin… xin một lòng theo… theo … theo tướng quân.

Dương Thanh hét lớn:

- Bắt hết những kẻ đã chạy trốn cho ta. Người sống thì phải thấy người, kẻ chết thì phải thấy đầu.

Xong rồi thanh gươm cắm lặm xuống đất. Có tên giám quân sợ quá mà tiện ngay trong quần, tên thì xỉu ngay tại chỗ. Dương Thanh lên ngựa cười lớn rồi vượt sông chạy thẳng về phía thành Luy Lâu, phía đông trị sở Tống Bình.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Hồi Thứ nhất:

Chốn sông thiêng, con dân chài trốn chạy.

Đất uy linh, kết bái những anh hùng.

Chương 1.5 Hạnh ngộ hùng tâm

Trong đêm khuya vắng lặng chẳng lấy một bóng người, Dương Thanh dắt ngựa đứng trên gò đất cao nhìn xa xăm có thứ ánh sáng lập lòe bờ phía đông sông Cái, giọng hát nỉ non:

“Người về tôi chẳng có ai.

Đây tôi chỉ có bờ vai anh hùng.

Đêm khuya lạnh lẽo sang sông

Gặp người quân tử bóng hồng trao duyên

Người ơi hễ có lên thuyền

Trao tôi thanh kiếm rồi quên chiến trường…”

Vị tướng đang đắm chìm trong câu hát nghiêng đưa theo mái chèo thì bỗng có tiếng gọi da diết từ phía lòng sông:

- Này vị tướng quân kia ơi. Trời canh ba sao còn đứng đấy! Kẻ anh hùng lo chi việc cơm áo. Sẽ có người giúp tướng chủ vượt nan. Xuống đây nghe một tiếng đàn, hễ sông có động thì bàn việc quân.

Dương Thanh quăng ánh mắt xuống làn nước còn đang nuốt ánh trăng khuya, huyết mã hý cao một tiếng rồi chạy thẳng về phía sông sâu. Dương Thanh ngại ngần bước tới bến sông. Ngựa huyết mã nhảy chồm lên đứng cạnh mạn thuyền nhìn Dương Thanh như ý muốn tướng chủ lên cùng. Có một lão râu tóc lơ thơ nhưng chẳng lấy một sợi bạc, người lùn chừng năm thước, tay bắp cuộn, chân vững trãi như hai cột đình, mình rùa đội chiếc nón lá xạm màu vì nắng, tay nắm chắc mái chèo tựa người tướng quân cầm mác trên tay, giọng sang sảng:

- Vị tướng quân này muốn sang sông nhưng sao còn chưa chịu lên thuyền?

- Phải, nhưng sao lão biết ta muốn sang sông?

- Bọn chúng tôi quanh năm sông nước chở những chuyển đò, có chi mà không hiểu người khách. Ngựa của ngài chính là dẫn đường, chủ có muốn đi thì ngựa ắt mới đi.

Dương Thanh cho là phải rồi trò chuyện với ông lão mà ngủ quên lúc nào chẳng hay. Có tiếng vó ngựa huỳnh huỵch nền nã trong tai, Dương Thanh tỉnh dậy, người vị tướng ê mỏi, toàn thân ướt sũng mồ hôi, huyết mã vẫn đứng nhởn nhơ gặm chút cỏ non còn đang vương chút sương đêm. Rồi có tiếng người chạy lại bụi tre phía bến sông. Bóng đen núp yên lặng, Dương Thanh ra hiệu cho huyết mã im lặng, vị tướng tiến từng bước nhẹ ra bờ sông rồi vòng qua bụi tre. Bọn lính tráng lùng sục khắp bến đò, ông lái đò ban nãy lúc canh hai đưa họ Dương sang sông cũng không còn ở đó, chỉ còn hai tên phu gầy còm đang ăn bữa đêm với hai củ khoai nướng nhem nhuốc. Hai tên phu ậm ư ậm ừ, mấy tên lính gắt lớn:

- Các ngươi có khai không thì bảo! Hoặc là các ngươi sẽ phải chết.

Một tên phu quỳ xuống van lài:

- Mong các Đại nhân tha cho hai anh em chúng con. Từ canh hai đến giờ bọn con chưa chở được chuyến đò nào cũng không thấy người nào gọi đò cả.

- Vậy dấu vó ngựa đây là sao hả? Các ngươi còn định chối?

Tên nha dịch rút kiếm ra khỏi bao định chém thì bóng đen núp sau bụi tre vội vàng chạy ra xô hắn. Dưới anh đuốc, chàng trai dáng người mảnh khảnh như cành trúc, khuôn mặt khôi ngô thanh nhã tựa thần tiên, mắt sáng như sao trời, sống mũi thẳng như cây dừa xứ Hoàn Vương. Dương Thanh bỗng thấy có một quầng sáng quanh anh ta từ dưới sông lên nhưng thượng tướng quân vẫn không nhúc nhích chân. Áo quần xộc xệch ướt át, tóc xõa ngang lưng, chàng trai nhìn bọn sai nha với ánh mắt giận dữ:

- Hai người đó không có tội gì. Các ngươi hãy để họ yên.

Thượng tướng quân chăm chú nhìn anh ta từ trực diện, gương mặt thanh tú khiến Dương Thanh có cảm giác đã quen từ rất lâu. Hai tên lính tiến đến gần, trói chàng thanh niên bằng thừng đay. Chàng thanh niên cố gắng cựa nhưng không thể thay đổi được tình hình. Hai tên phu lái đò hớt hải lên đò đi sang hữu ngạn sông Cái mà không dám ngoảnh lại nhìn lấy một lần. Dương Thanh thấy một bóng đen dưới mặt nước từ từ đi lên che khuất ánh đèn trên chiếc thuyền nan. Dương Thanh giật mình, huyết mã hý vang. Hai tên lính quay lại lùng sục, giương đuốc về phía Dương Thanh. Dương Thanh cười lớn:

- Hai ngươi đang đêm khuya khoắt sao lại sang đây? Nhìn các ngươi thì chắc chắn là lính Tống Bình phủ. Các ngươi định đảo ngũ hay sao?

Hai tên lính hất mặt lên ngông nghênh:

- Nhà ngươi nói đúng. Nhưng chỉ đúng một nửa. Bọn ta tuân mệnh Lý Đại nhân đi bắt người chứ không đảo ngũ. Nhà ngươi cũng mang áo quân Tống Bình, áo giáp kia ngươi có từ đâu. Không lẽ…

Dương Thanh chẳng cười lớn:

- Các ngươi truy bắt ai?

- Bắt ai thì liên quan gì đến nhà ngươi?

Thượng tướng huýt sáo, huyết mã lao tới khiến hai tên lính ngã ngửa. Rồi bỗng nhiên bóng đen xuất hiện, nhanh như cắt, thượng tướng cùng hai tên lính bị hạ gục. Huyết mã hý liên hồi kêu thảm thiết trong đêm.

Tờ mờ sáng, Dương Thanh tỉnh giấc nhìn xung quanh trong ê ẩm. Dương tướng nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp bị gãy mất một chân, xung quanh là vách đất, mái tranh. Thượng tướng nhìn một lượt khắp nhà có ở một cây mái chèo dựng góc nhà, một chiếc nón quai thao xậm xì vì mưa nắng treo trên bức tường đất loang lổ. Có manh lưới rách còn ướt sũng nước sông, vẩn đục và tanh tanh mùi cá. Dương Thanh bước ra ngoài, ngẩng đầu lên thì mặt trời đã quá ngọn tre. Huyết mã đứng nhâm nhi đám cỏ non đầu hạ, mặt như khoái chí nhìn Dương tướng. Thấy đằng sau nhà có tiếng âm ư, Dương Thanh chạy ra phía sau. “Hóa ra là hai tên lính hôm qua! Nhưng sao ta lại ở đây, không bị trói như hai tên này?” Dương tướng lẩm nhẩm trong miệng.

- Dương thứ sử đã tỉnh rổi đấy à? – Giọng cười sảng khoái vang lên từ phía bờ sông.

- Hóa ra là lão! Đêm qua lão đưa ta qua sông phải không?

Ông lão chân cột đình, tướng người vạm vỡ phi phàm, mang trên vai chiếc thuyển nan đã chở họ Dương đêm qua. Ông lão đặt chiếc thuyền xuống rồi trả lời giọng sang sảng:

- Chính lão! Đêm qua tướng quân trúng gió nên ta và hai con ta đã đưa tướng quân vào đây. Chắc tướng quân vẫn còn nhận ra người này?

Chàng tra khôi ngô tuấn tú bước ra, trên vai còn đương vắt lưới, ánh bạc sáng lấp lóe sau lưng. Anh chàng chắp tay, quỳ gối chào Dương Thanh:

- Đa tạ tướng quân đã ra tay cứu giúp. Tiểu nhân nghe danh tướng quân đã lâu, nay mới hạnh ngộ! Thật là may mắn.

- Nhà ngươi là… - Dương Thanh ngập ngừng hỏi.

Lão ngư khảng khái nói:

- Bẩm thứ sử! Người này là Sĩ Giao vốn thuộc dòng dõi Đỗ gia ở Ái Châu, tổ nghiệp ở đất Bắc nhưng đã về Ái Châu từng làm thứ sử. Đời trước có Đỗ Anh Sách từng làm đến chức Phó đô hộ, nhập viện phán án tại trị sở Tống Bình đời đô hộ sứ Triệu Xương và Trương Chu. Sau này họ Bùi hống hách nên đã lui về xứ Trường Châu. Chỉ còn vài người ở lại Tống Bình làm các chức nhỏ.

- Bẩm tướng quân! Tôi nghe nói ngài cũng chẳng ưa tên họ Lý, buổi chúc thọ ngày qua ngài cũng không đến nhưng cái uy của ngài khiến hắn chẳng thể làm gì. Tôi họng thấp cổ bé nên mới thành ra nông nỗi này.

Dương Thanh cắt lời:

- Nhà ngươi có phải là tên Đô áp nha trong phủ?

- Dạ đúng. Từ ngày họ Bùi đến Tống Bình, Đỗ gia người thì về quê, kẻ thì đi khai hoang các cơ mi. Chỉ còn tôi ở lại. Kỳ thi hương cũng đạt Tú tài nhưng hắn chẳng màng đến chỉ giao cho cái chức Đô áp nha. Tôi đây võ tuy có luyện nhưng chẳng thể như văn. Tôi đây mới về huyện Ninh Hải, Lục châu sinh sống như một ngư dân. Xung quanh Tống Bình này, mấy châu cơ mi thì toàn những kẻ bợ đỡ, nịnh nọt hắn làm thứ sử, huyện lịnh. Sau khi Đỗ Gia trang bị viên huyện lịnh Ninh Hải thảm sát, tôi trở lại Tống Bình thì hắn ban cho gia đình tôi trăm mẫu ruộng phía nam Luy Lâu nhưng nửa năm hạn hán không nộp được chút sưu nào thì bọn cướp đến quấy phá, đám làm thuê cùng vì thế mà đói chẳng làm nữa. Hắn thì tết tổ chức tiệc đãi, tháng giêng lễ cầu, tháng ba mừng thọ, tháng tư đầy tháng cháu… Lần nào tôi cũng phải chạy vạy hết nơi này nơi khác để mua quà lễ cho hắn. Tướng quân ở ngoài xa không biết chứ. Đến giờ tôi còn chưa trả được hết những món nợ trước. Cũng chẳng còn mặt mũi nào mà đi vay mua lễ vật đến ăn tiệc của hắn. Ấy nên tôi mới phải chạy trốn đến đây. Cả đêm hắn cho người lùng sục tôi. May mà chạy đến bãi sông có Lão Đỗ Đại đây không tôi cũng chỉ còn nước chết trong tay hắn.

- Nhìn tướng mạo các ngươi chẳng phải kẻ thường. Nay ta thấy người Nam ta nơi nào cũng oán thán, nghèo đói, còn bọn quan lại các châu, huyện thì ra công ra sức vét vơ, đút lót quan trên để chạy chức quyền. Từ lâu ta đã muốn trừ khử bọn này. Nay Lý Tượng Cổ lại càng thêm hung bạo. Hắn cậy trên có lọng lớn, giả làm nghiêm trị kẻ dưới khiến dân Nam lầm than khổ cực. Ta được về Tống Bình, đi đánh giặc ở suốt dọc Lục Châu, Trường Châu, Ái Châu, đâu đâu dân cùng than khóc cực cùng. Nay giặc ngoài đã yên, triều đình phương Bắc đang loạn, ta đã kết giao với trí sĩ người Nam ở khắp các Châu chờ ngày giành lại quyền tự chủ tại đất này. Ta thấy các ngươi cũng chẳng phải người thường lại ghét lũ tham ác phương Bắc. Chẳng biết Các người có chí hướng giống ta, cùng ta mưu nghiệp lớn hay chăng?

Lão Đỗ nói:

- Lão xưa nay chỉ biết lênh đênh sông nước, quăng chèo bắt lưới nào đâu có biết chuyện binh gia.

Dương Thanh cười sảng khoái:

- Lão dũng mãnh hơn người, hạ gục ta chỉ một đòn đánh. Không thể khinh thường. Nếu Lão ưng thuận thì ta phong Lão làm Bộ binh bản tướng, cầm năm ngàn quân bộ binh trị sở, chờ ngày lật đổ người Bắc phương.

- Lão ngư cảm ơn thịnh tình của tướng quân. Nếu đã như vậy, ta xin phò trợ tướng quân nhưng khoan hãy cho ta làm tướng. Để cho ta lập công khi ấy rồi mới ban sau cũng không muộn. Ta cũng xin tướng quân thu nạp Sĩ Giao, chắc chắn Sĩ Giao sẽ không làm tướng quân thất vọng.

Sĩ Giao quỳ xuống bái lạy:

- Sĩ Giao xin dốc lòng vì tướng quân. Ta có chút này làm quà xin giao lại cho tướng quân.

Sĩ giao cởi chiếc áo đang mặc trên người. Chiếc áo cũ khiến Dương Thanh không khỏi ngạc nhiên:

- Nhà ngươi là có ý gì?

- Bẩm tướng quân. Chu Diên cách đây không xa, chừng trăm dặm đường. Ngày trước tướng quân từng đánh quân Chà Và. Đây cũng là vùng đất hiểm yếu, ngày trước quân Quỳnh Châu vào đó mà đánh bại được Phùng An thiếu chủ. Tại hạ có người anh em là hào trưởng đất ấy, tập hợp được trên ba nghìn anh em chỉ chờ ngày khởi nghĩa. Núi Tiên Du, trăm mẫu ruộng ta đã cho huynh đệ khai khẩn, nay cũng được nghìn người, tất cả xin nghe tướng quân điều động. Vùng Hoan Ái, trọng yếu nhưng là đất của tướng quân nên thêm phần an tâm. Bọn Phong Châu, Man Hoàng tham của đút lót nên cũng dễ bề cầm cự. Đây là bản đồ An Nam và kế sách để trị lũ cướp người Bắc.

Dương Thanh lấy làm mừng lắm nên đã ở lại với hai người họ Đỗ kia cho đến quá chiều. Bữa cơm cá rượu nhạt khiến cho sĩ khí Dương Thanh lên cao, nổi hứng đọc bài thơ:

“Nam vương xưng tại đất này

Kẻ ngư chài lưới, cuốc cày nhà nông

Đào núi rồi lại ngăn sông

Bao năm vun đắp bao công gieo trồng

Lĩnh Nam mảnh đất con rồng

Biển Đông bát ngát một dòng cháu tiên

Thục Vương xưa ấn chủ quyền

Bà Trưng Bà Triệu đất liền máu xương

Lý Tổ lừng lẫy muôn phương

An Nam Bố Cái Đại vương anh hùng

Bao phen lửa đạn nghìn trùng

Dân ăn cát sỏi nộp từng đồng sưu

Phận ai ăn chõ uống niêu

Canh ba thức giấc trai điều biên xa

Trẻ con cùng với đàn bà

Vạn cân thóc thuế, lụa là hiến dâng

Than ôi cái túng cái bần

Bao phen cam chịu bấy lần khổ đau

Nghìn năm mưa nắng giãi dầu

Cá ai lưỡi thẳng mắc câu không mồi.

Đêm ấy, Dương Thanh cùng hai người đến bãi Quần Thần khấn vái trời đất, bọn lính tráng được khao đãi rượu thịt no nê. Dương Thanh dắt hai người ra bờ sông cùng tắm để gột bỏ những muộn phiền. Lão ngư họ Đỗ khua chèo, Sĩ Giao cao hứng thổi bài quan họ, giọng thanh thanh trong trẻo, Dương Thị thấy vậy liền hát cùng Sĩ Giao. Chỉ vài ngày sau, biết tâm tình của Sĩ Giao và con gái, Dương Thanh gả con gái Dương Thị cho Sĩ Giao.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành

Chương 2.1 Giết quan sứ, phục gia thù gặp cố nhân

Về họ Lý, Tượng Cổ trở về phủ và sai lính tìm hiểu về cô gái khiến hắn ngẩn ngơ khi ở phủ tướng đêm ấy tại Dương tướng phủ. Ngày đêm hắn thẩn thơ, làm văn làm thơ về cô gái ấy, chỉ ước một lần được gặp mặt. Rồi có kẻ mách rằng: “Muốn gặp lại nàng tiên ấy, chỉ cần đến phủ quân sư của Dương Thanh.”

Hắn lập tức rước kiệu lớn, trống kèn khua vang khắp La Thành đến nhà họ Đỗ. Hắn biết nàng là con gái nhỏ Dương tướng, vợ của Sĩ Giao, quân sư hầu cận của họ Dương cũng là tay Áp nha lần trước đắc tội với y. Hắn liền trơ trẽn sai lính đến phủ rước nàng về, Sĩ Giao biết vậy lấy làm hậm hức lắm. Sĩ Giao sai người thế thân cho vợ mình rồi đưa về phủ đô hộ. Họ Lý hồi hộp rồi chăm chút tiếp đón giai nhân. Linh cảm cho hắn thấy có điều gì đấy không đúng như những gì hắn mường tượng ở trong đầu. Hắn cho lính đến bắt cả nhà Đỗ Sĩ Giao rồi ép Dương Thị phải chiều chuộng hắn.

Được tin, Dương Thanh nổi cơn giận, mang quân lính vào thành định hỏi tội họ Lý. Họ Lý sai người thả Đỗ Sĩ Giao, rồi hắn cười nhạt rằng: “Dương tướng quân khỏi lo, chỉ là chút hiểu nhầm giữa ta và Đỗ Tiên sinh.”

Sĩ Giao bẩm báo lại với Dương Thanh tất cả sự việc. Dương Thanh sai người cho gia đình Sĩ Giao trở về Ái Châu. Tại đây, Sĩ Giao gặp lại được Tồn Thành và Thủ Trừng.

Từ bấy giờ, Lý đô hộ lại càng sợ Dương Thanh hơn khiến hắn tâm thần bất an, lúc nào hắn cũng mơ mơ màng màng việc giữ được Dương Thị nhưng hắn lại giật mình nghĩ đến Dương Thanh. Hắn lao vào gái gú, hoan lạc để quên đi sầu não, buồn phiền. Việc Giao Châu thì họ Lý giao hết quan dưới, hầu cận.

Trở lại tình hình Giao Châu lúc ấy, Lý đô hộ bắt bọn Man Hoàng dọc sông Đà, sông Cái phải cống nộp nào là sừng ngà, da cọp, sơn hào biết bao nhiêu là là thứ. Bọn tù trưởng các châu cơ mi ở Hoàng Man động ngày càng căm ghét họ Lý kia, lại bị bọn Nam chiếu mua chuộc nên lúc nào cũng nhăm nhe có ý đồ xấu. Tượng Cổ càng thêm lo lắng. Nhiều lần triệu hồi Dương Thanh về La Thành nhưng ông không tuân. Tượng Cổ mới sai lính gửi cho Dương Thanh một lá thư rằng:

“Tượng Cổ ta trước sinh ra quyền cao chức trọng, bị bon quan tham nhiễu loạn triều đình khiến ta mất chức quan, triều đình lừa lọc đuổi ta về An Nam này. Ta chỉ mong có người hiểu ta nhưng xem ra chỉ có mình Dương Thanh hiểu. Ta cũng chỉ vì bách tính mà hành xử thôi. Cũng là vì bọn quan dưới nhiễu nhách dân lành, chia rẽ mọi người. Cả ta và Dương tướng quân cũng bị cuốn vào ấy. Nay ta khẩn thiết mời tướng quân vì bách tính An Nam, và cũng vì danh dự người Nam, vì hai chữ nghĩa dũng của Tướng quân mà trấn áp bọn Man Hoàng cứu nhân dân bách tính Giao Châu. Xin tướng quân rộng lòng xoi xét tâm can.”

Dương Thanh đọc xong lá thư mà cười lớn: “Đúng là bọn tiểu nhân, phen này ta thề sẽ diệt được bọn ngươi.”

Tên lính đưa thư nghe được liền chạy về phủ đô hộ báo với Tượng Cổ khiến hắn mừng lắm. Đêm ấy, bọn Man Hoàng áp sát phong Châu và huyện Thái Bình, Tượng Cổ mở rộng cổng thành phía nam để quân Dương Thanh vào thành chuẩn bị nghênh địch. Hắn chắc bẩm rằng có uy vũ của Dương tướng quân nên phần thắng thuộc về mình, hắn cho mời tiệc rượu ca hát để mừng công. Bất ngờ cả trăm tên lính bao vây phủ đô hộ, một tiếng ngựa hí vang trời làm hắn giật mình. Một vị tướng quân trên lưng con huyết mã, mặt đầy uy nghiêm oai dũng bước vào cửa phủ. Tượng Cổ dang rộng tay, chạy vội về phía Dương tướng mà khua tay múa mép:

- Dương tướng quân đã đến rồi. Có Dương tướng quân ở đây, Giao Châu không lo bị phá rồi. Tiệc này ta mở để khao tướng sĩ. Xin mời Dương tướng quân xuống ngựa nâng ly, và mời mọi người chúc Dương tướng quân thắng trận trở về.
Dương Thanh quắc mắt nhìn họ Lý và đám quan lại, một mũi tên bắn ra, Tượng Cổ nằm sấp dưới sàn máu lênh láng. Bọn vũ nữ hoảng loạn chạy ra ngoài phủ, riêng đám quan lại dưới trướng, Dương Thanh cho lính vào giết gọn từng tên. Bọn hầu cần, gia nhân, lính tráng chống cự quyết liệt nhưng không sao cưỡng lại sức mạnh của đoàn quân người nam của Dương Thanh. Biết tin xấu xảy đến với quan đô hộ, bọn lính từ các huyện Long Biên, Chu Diên lập tức kéo về La Thành nhưng bị Chí Liệt chặn đánh tan tác bên bờ Đông sông Cái. Lính tráng thì hàng, tướng sĩ thì tẩu thoát về phương Bắc.

Khi đó, tại châu Ái, bọn Đoàn Uyển, Tồn Thành, Do Độc thấy Giao Châu có biến lớn lại biết được người anh em Sĩ Giao đang ở Ái Châu. Tồn Thành cho gọi Sĩ Giao đến Nhật Nam.

Sĩ Giao mừng rỡ gặp lại Tồn Thành sau gần ba năm xa cách, biết bao là chuyện. Tồn Thành bày tỏ sự mến mộ với Thiên thanh tướng và mong muốn được cùng Sĩ Giao về Tống Bình để cùng góp sức cứu dân. Sĩ Giao vui lắm, lại nói: “Mưu tầm mưu, kế tầm kế, ngày diệt trừ họ Lý báo thù cho Đỗ Gia trang đã gần đến rồi.”

Dương Thanh gửi cho Sĩ Giao một lá thư mật hẹn ngày hội quân tại Tống Bình. Ngay trong đêm Dương Thanh giết chết viên quan sứ tại Tống Bình, Sĩ Giao cùng với Tồn Thành dẫn hơn tám trăm lính và hai chục thuyền lớn đi dọc bờ biển từ Ái Châu đến cửa Ba Lạt ngược dòng sông cái vào đất Chu Diên đánh thẳng vào cửa ngõ đất Hiến, lại cho thuyền xuôi dòng Luộc sang đất huyện Ninh Hải, châu Lục ra sức đánh giết bọn quan quân chống cự quyết liệt tại đó. Đám lính nghe danh tiếng Dương Thanh mà ra hàng hết loạt. Viên quan họ Lý năm nào chạy trốn đến Hải Môn thì bị Do Độc truy sát mang thủ cấp về tế tại bãi sông cửa Nam Triệu.

Tròn ba năm, kể từ ngày định mệnh ấy, Sĩ Giao cùng Tồn Thành trở lại mảnh đất năm nào những người dân xứ chài ấy còn í ới gọi nhau từ sớm đi bắt cá tôm. Bọn trẻ chạy lon ton dưới những dàn lưới còn nguyên mùi cá. Những khoảnh khắc ấy cứ ùa về trong những câu chuyện của con người đã ăn trực nằm chờ nơi này, chờ ngày thay đổi đất Giao Châu này. Chỉ còn lại đây những nấm mồ xanh mướt cỏ, những căn nhà trống toác còn vương lại trên đó là cát sông và những dấu vết sương gió của thời gian.

Hai người đang uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc của ngày hè tháng sáu thì có một tên lính vội vàng chạy đến báo với Sĩ Giao:

- Bẩm Đỗ tướng quân. Ngoài kia có một gã hung tợn, tóc rối bù xù đang đòi vào doanh trại để gặp tướng quân. Chúng tôi hỏi thì hắn ta gào thét lên rồi cứ đi thẳng vào. Hắn khỏe quá, chúng tôi không thể cản lại hắn được.

Tồn Thành sửng sốt:

- Ở đâu? Người ở đâu đến?

Chẳng nói chẳng rằng, Sĩ Giao lên ngựa và chạy ra phía cổng doanh trại. Dưới lập lòe ánh lửa trại, Sĩ Giao thấy một gã to lớn, tay bắp cuồn cuộn tựa mây, đôi chân sưng sững như chân voi nham nhở những bùn đen còn dính lại đang khô dần. Chiếc khố ướt sũng vẫn còn vương vẩn cá tôm. Mặt hắn có vết bớp lớn chiếm trọn nửa khuôn mặt bên phải. Một mắt hắn hằn nguyên vết chém của đao kiếm. Sĩ Giao có chút e dè:

- Nhà ngươi là ai? Là người hay quỷ?

Hắn gầm gào lên một cách hung dữ như quỷ Sa tăng trong truyền thuyết, tay hắn cầm cây gậy bằng gỗ nghiến gồng mình bẻ nó gãy tan tành khiến mọi người khiếp sợ. Tồn Thành cầm cây thương trên tay một tên lính xông thắng tới chỗ hắn. Cây thương lao vun vút rẽ khói, bụi cát mờ mịt mà gã hung dữ kia vừa dập tung lên.

Hắn lại gào lên một tiếng “Giết” thật lớn rồi đạp tung cây thương của Tồn Thành, cây thương gãy làm tư. Do Độc bấy giờ cưỡi ngựa từ phía cổng quân doanh đến cầm kiếm chém thẳng vào người hắn. Lưỡi kiếm sáng loáng lia một cái thật ngọt qua khuôn mặt đầy thẹo của gã khiến mái tóc xõa xượi của hắn cụt lủn, máu trên khuôn mặt hắn chảy ra thành dòng. Tồn Thành cầm hai mảnh gãy của chiếc thương vừa gãy, giọng giận dữ hỏi gã:

- Nhà ngươi có phải là…

Sĩ Giao đưa ánh đuốc lại gần khuôn mặt hắn. Từng giọt máu lẫn giọt mồ hôi nóng rừng chảy từ mắt trái của hắn xuống cuốn trôi đi những bụi bùn còn vương. Khuôn mặt hắn dần hiện ra khiến Sĩ Giao giật mình, thốt lên:

- Tồn Thăng!

Hắn lại gầm gào, hét lớn:

- Giết!

Tồn Thành lúc này, ném đôi chuôi thương xuống dưới đất tiến lại gần. Thành hạ giọng:

- Ngươi là Tồn, Tồn…

Máu chảy trên khuôn mặt hắn lẫn bụi cát khiến con mắt còn lại của hắn giật giật lên. Gã xông thẳng vào đám lính, vác từng người lên rồi ném thẳng vào lều trại. Bọn lính tráng thấy thế đều lùi ra cả. Chỉ có Sĩ Giao tiến lại gần, ân cần hỏi han hắn. Hắn liền nhe răng dữ dằn như để đe dọa Sĩ Giao. Sĩ Giao quẳng bộ giáp xuống rồi xé tan chiếc áo đang mặc trên người. Hắn sững người lại, mắt chằm chằm nhìn vào hông phải của Sĩ Giao.

- Là em rồi. Tồn Thăng ơi. Đúng là em rồi. –Sĩ Giao nấc lên trong nghẹn ngào.
Gã mặt thẹo bỗng sụp xuống, mắt hắn nhắm nghiền. Tồn Thành liền hét lớn lên:

- Các ngươi còn không dìu quân sư cùng em ta vào doanh trại.

Do Độc thu kiếm lại, hỏi Tồn Thành:

- Người ta vừa chém là em của các anh?

Có tiếng xe ngựa từ phía doanh trại phía tây đến, tiếng lanh lảnh của đứa trẻ:

- Cha ơi! Trừng con sáng nay thấy chú Thăng ở bãi sông cùng với cá có sừng.
Trên xe ngựa bước xuống là Thủ Trừng và Dương Thị cùng đám người tùy tùng. Đám lính và Sĩ Giao đương dìu Thăng vào trong chỉ ngoái đầu ra nhìn qua rồi nhanh chóng lấy nước lau rửa người cho Tồn Thăng.

Tồn Thành ôm lấy Trừng sốt sắng chạy vào trong trướng. Tồn Thành gầm gào:

- Các người mau mau ninh cho ta một niêu gà tần và một niêu canh cá.

Nói rồi, Do Độc tiến vào. Với y thuật của con trai Lý Lang Mộc, tuy có chút gượng gạo nhưng Độc đã gột sạch vết thương và bó lại cho Thăng. Độc quấn lấy một miếng da dê đắp thuốc lá trên khuôn mặt của Thăng. Chỉ trong vòng ba ngày, vết thương đã liền, chỉ có con mắt bên trái nay đã khép hẳn một nửa bên ngoài cạnh thái dương.

Độc nói với Thành rằng: “Vết thương của Thăng khá sâu, lại thêm những vết thương ngày trước khiến khuôn mặt của Thăng chẳng thể trở lại bình thường được. Em là người khiến anh ta ra như thế này. Tội này xin các anh cứ trách phạt.”
Thành cười lớn sáng khoái:

- Cũng may là Do Độc kiếm thuật quả là đáng nể phục nên bọn ta mới nhận ra được Thăng. Nếu chẳng phải vì nhát kiếm ấy, mái tóc vẫn che đi khuôn mặt ấy thì ta đã giết chết em ta hay sao. Ta trách em làm sao đây?

Do Độc lại nói:

- Nếu các anh không trách phạt em thì em xin bằng mọi giá sẽ chữa khỏi cho Tồn Thăng. Thăng là em của anh Tồn Thành thì cũng có nghĩa là anh của Do Độc em.

Chỉ đúng một ngày sau, Lý Lang Mộc đã có mặt tại doanh trại. Sĩ Giao bấy giờ mừng lắm. Vội vội vàng vàng, Sĩ Giao bái kiến Lý tiên sinh. Lý Lang Mộc chẳng ngồi nghỉ ngơi, chưa một ly trà đã khẩn trương xem dò vết thương của Tồn Thăng. Xem dò vết thương một lượt, Lý Lang thở phào nhẹ nhõm:

- Thật may mắn cho người anh em này. Anh ta chỉ là sức quá kiệt mà như thế này thôi. Hãy cứ tiếp tục vắt nước cháo và cho anh ta uống canh. Chỉ ngày mai là anh ta tỉnh dậy. Thuốc đắp mặt cũng chỉ giờ dậu ngày mai là tháo ra được.

Y lời Lão Lý nói, sáng sớm ngày hôm sau Tồn Thăng tỉnh lại. Do Độc liền sai bọn lính đi kéo cá dưới sông lên, mua rượu trong dân, đãi khao cả đoàn quân.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành

Chương 2.2 Đỗ gia đoàn tụ


Khói lửa bập bùng, mùi cá nướng thơm lừng quyện với gạo nếp không thể xua đi được hương nồng dịu của những hũ rượu. Cả đoàn quân ăn uống no say suốt từ giờ thìn đến tận khi gà lên chuồng. Trong hơi men, Sĩ Giao lớn tiếng với cả đoàn quân:

- Nhờ phúc của Thiên thanh Dương tướng Dương Thanh. Trước là trả được mối thù mà bọn bạo tàn đã reo với dân Nam ta, sau ấy là con dân hương Yên Hưng cũng đã được toại lòng.

Nói đến đây, Tồn Thăng bỗng nhiên khóc lớn như một đứa trẻ. Tiếng khóc của gã to đến nỗi lũ mèo hoang đang rình rập chờ cá thừa thi nhau chạy toán loạn, kêu la thảm thiết. Tiếng đàn mèo hoàn kêu hòa với tiếng khóc ấy khiến mọi người không ai là không kinh hãi. Tồn Thành hắng giọng:

- Nam tử hán dũng mãnh như em cớ sao khóc như đàn bà con trẻ vậy?

Thăng mếu máo khiến khuôn mặt đầy những nếp gãy do đao kiếm trở nên khó nhìn hơn bao giờ. Chút máu đỏ tươi lại rỉ ra từ vết thương còn chưa lành nhoe nhoét trên gò má trái khiến mặt hắn càng thêm kinh sợ. Thủ Trừng thét lớn:

- Chú quỷ Thăng. Con quỷ khóc nhè.

Mọi người cùng cười lên trong tiếng nói ngây thơ của đứa trẻ lên mười khiến Thăng mặt nóng phừng phừng. Thăng lắng lại, mặt gầm gừ như thú dữ chuẩn bị săn mồi. Con mắt phải sâu hoắm trong hốc mắt thâm xì nhìn xung quanh. Đám lính đang ngặt nghẹo cười nhìn Thăng mà nín bặt. Chẳng kẻ nào dám cười nữa. Sĩ Giao ân cần hỏi:

- Tại sao em khóc?

Thăng như lạc mất giọng trong cơn nấc:

- Tại ta. Tất cả là do em.

Thành ngạc nhiên hỏi em mình:

- Em làm sao? Mọi người bị tên quan huyện họ Lý kia sát hại. Đâu có liên quan gì đến em. Bao năm qua em ở đâu?

Nói đến đây, Tồn Thăng nghẹn ngào trong nước mắt kể lại…

"…Một ngày hè cách đây, Thăng cùng đám thanh niên Đỗ Gia trang bắt được Long ngư. Các cụ già trong làng cho ấy là điềm lành liền làm lễ cúng tế thả cá về với đại ngàn. Sức mạnh của Thăng có thể khiến núi đổ biển trào một mình kéo cả con cá lớn ấy vào bờ. Hai ngày sau, tên Lý huyện lệnh đám quan quân đến vây làng hòng tìm Long ngư. Hắn phá phách làng xóm cho lục lọi khắp nơi. Rồi hắn còn định mang cá về Tống Bình dâng cho giặc Tượng Cổ. Thăng xua thuyền nhỏ bám theo định xông lên thuyền giết chết tên Lý huyện trong lúc hắn ngủ trên thuyền.

Chẳng may, Long ngư quẫy mạnh quá khiến cả đám lính tỉnh giấc. Em vội vàng bơi xuôi dòng về cửa Nam Triệu. Mấy ngày hôm sau quay lại làng thì tất cả già trẻ gái trai đã bị giết sạch. Thăng ta lấy làm căm phẫn lắm. Thăng nghĩ là do mình gây lên. Ấy nên mỗi mạng người, Thăng vạch lên cơ thể mình một nhát dao để tưởng nhớ. Trên cơ thể Thăng cả trăm vết cứa khắp từ khuôn mặt đến đầu ngón chân.

Sau đó, Thăng về huyện thành Ninh Hải tìm cách báo thù mà thân cô thế cô chẳng làm được gì. Cứ hễ ngày rằm, mùng một hắn đi chùa là Thăng ta lại tìm cách tiếp cận hắn nhưng hắn luôn hết sức cảnh giác. Sau khi giết chết cả xóm chài hương Đỗ, hắn cũng có đến vài nơi nữa và cũng vì lý do ấy mà giết thêm cả mấy chục mạng người nữa. Khi ấy, Thăng ta mới kết giao những người chung kẻ thù tìm kế báo thù. Tháng bảy năm trước, Thăng ta cùng đám anh em đột nhập vào huyện thành Ninh Hải hòng giết hắn. Số trời không cho hắn chết. Khi chúng ta vào đến phủ của hắn thì có tiện nữ nhà ấy cùng nhân tình hí húi đằng sau bếp làm rơi vỡ cái chum rượu quý của hắn treo ở đó.

Thấy có động, cả đám lính xông thẳng vào thấy anh em ta trong phủ liền ra tay. Mấy anh em của ta bị bọn gia nhân lính tráng giết sạch cùng đôi tiện nhân kia. Một mình ta liều chết xông vào thì hắn đã tẩu thoát từ lúc nào. Thăng lại chạy về núi Yên gần Hải Môn quan làm cướp. Suốt dọc từ Hải Môn trấn về đến Luy Lâu – địa bàn của Lục Bạch Hổ là địa bàn của Thăng ta. Đám cường hào quanh đây cùng bọn dân buôn từ Ngũ Lĩnh xuôi nam nghe tiếng ta mà khiếp hãi muôn lần . Còn tên Lý huyện kia từ bấy sợ hãi, hắn đóng kín cửa phủ, canh phòng nghiêm ngặt cả ngày lẫn đêm. Tháng trước, anh em ta lại bao vây phủ thành, nếu không phải có sự giúp đỡ của đám lính Tống Bình thì ta đã giết chết được hắn rồi…"

Sĩ Giao khi ấy lại hỏi:

- Chúng ta phải mất một tuần sau mới thoát khỏi cửa Nam Triệu ra Đông Hải, sao không có gặp em?

Thăng vẫn còn đương dở câu chuyện:

- Là em đi lang thang không dám trở về. Mà nếu không phải là cái tên Chí Liệt thì ta đã giết chết sạch bọn chúng rồi.

Mọi người thảng thốt, Tồn Thành hỏi:

- Ý em là sao? Là Thiếu Dương tướng quân giúp đỡ hắn sao?

Tồn Thăng khảng khái:

- Là cái tên nhóc Chí Liệt ấy. Hắn đánh với em hai trăm hiệp không phân thắng bại. Nhân lúc ấy, cái tên phó tướng của hắn tập kích trại của em trên núi Yên. Anh em mất nơi đồn trú, nay tan tác mỗi người một nơi. Ta chạy được đến đây thì bị cái tên Tre Độc kia chém rách nửa mặt. Nhìn ta như thế này chưa đủ thảm hại hay sao?

Cả đám anh em cười phá theo lời của Thăng, Do Độc cười khẩy:

- Đại ca thứ lỗi. Em tên là Do Độc, chứ không phải Tre Độc.

Tồn Thăng mặt hậm hực:

- Ta không biết. Ta thấy mọi người gọi ngươi là Độc, mà người có khác chi cây tre đâu. Ta gọi Tre Độc là không đúng à. Thôi, đừng có cười ta nữa. Mấy ngày nay ta chưa được ăn gì rồi.

Sĩ Giao cười lớn một tiếng:

- Người anh em. Ăn cho nhiều vào. Bao năm vất vả rồi.

Do Độc thấy Thăng đương ngấu nghiến cái tỏi gà thì lại châm chọc:

- Mấy ngày nay, anh ta chẳng ăn suốt đấy sao. Nào là cháo gà, cháo cá, canh gà tần… Mà người cứ ngủ mê ngủ mệt để cho anh em ta đút mỏi tay đấy sao.

Thăng quay ra, hất cằm nói:

- Nhà ngươi gây ra thì nhà ngươi phải cho ta ăn chứ. May là ta còn chưa cho ngươi một bài học đấy. Còn con mắt của ta. Trước ta còn nhìn thấy mờ mờ, nay chẳng còn thấy cái gì nữa. Chẳng phải là do nhà ngươi đấy sao.

Lão Lang Lý cười hiền nói với Thăng:

- Vị huynh đệ này không biết đấy. Cũng may là con ngươi ấy bị hỏng, con trai ta đã gắp nó ra. Chứ không biết chừng vài ngày nữa là nó đến độ hoại tử rồi nhà ngươi có đi gặp cha anh rồi.

Cầm hũ rượu lên uống ực một hơi cái thật dài, Thăng sang sảng nói phả hơi rượu vào mặt Lão Lý Lang:

- Thì đấy là máu thịt của cha mẹ ta cho ta. Ta ăn vào thì có phải tốt hơn không?

Tồn Thành dứt cười, nghiêm nghị nói với Thăng:

- Em ăn đi. Dừng tại đây được rồi. Ta hỏi, kẻ nào khiến mắt em ra như vậy?

Gã ngồm ngoàm miềng thịt gà trong miệng, môi còn bóng nhẫy trả lời:

- Anh Thành thật không để ý gì cả! Em vừa nói rồi, khi em đếm từng người Đỗ gia trang bị giết. Còn một người nữa là anh là em chưa đếm, lúc ấy cả người em chằng chịt vết chém rồi. Chẳng còn chỗ nào nữa, em mới nghĩ là còn cái mắt nữa thôi. Thì em rạch được một nửa rồi em mới nhớ ra còn có cả thằng cu Trừng nhà anh nữa. Em lại nghĩ lại là thôi, mắt còn để dò đường mà đi.

- Thế nên chú mới rạch có một nửa con mắt thôi đúng không? Thế sao không rạch hết con mắt ấy đi? Một mắt cũng nhìn thấy được mọi thứ mà.

Tồn Thăng uống thêm ngụm rượu nữa rồi thở ra một cái thật dài:

- À… Là em nhớ ngày trước ông nội kể cho em chuyện Hạ Hầu Đôn nước Ngụy thời Tam Quốc, em cũng định moi ra ăn nhưng mà thấy ăn đi thì thật uổng nên em thôi, để nó nhìn thấy mờ mờ cũng được. Ai ngờ.

Tồn Thành muốn cười nhưng không thể cười được, từ đâu nước mắt nam nhi lại ứa ra. Tồn Thành sụt sịt vội vàng lấy vạt áo gạt đi. Giọng còn nghẹn ngào:

- Nay anh em ta ở đây hội ngộ cứ như thể Tam Anh đoàn viên năm nào. Nay có Lão Lý, Sĩ Giao ở đây. Tôi với Do Độc cùng em trai ta Tồn Thăng lấy hũ rượu cùng xôi, thịt gà, cá nướng trước dâng lên trời, sau xin cúi vái đất mẹ, mặt hướng về Tống Bình, lưng dựa biển Đông xin thề “Ba anh em chúng ta, ngày tháng vẹn toàn đời này anh em chẳng rời. Sinh ly tử biệt quyết không hai lòng.”

Nói rồi, Do Độc cùng Tồn Thăng cùng cầm hũ rượu lên khấn vái trời đất. Mặt hướng Tây Nam mà vái nguyện giữ nguyên lời thề cho đến bạc mái đầu, trở về nơi đất mẹ. Sĩ Giao cùng Lão Lý Lang cùng đứng dậy, mắt ngước trời nam bỗng thấy năm ngôi sao sáng lên rực rỡ đứng cạnh mặt trăng to tròn. Sĩ Giao cười mãn nguyện nói: “Ngay cả trời đất cũng nhận ra được sự hạnh ngộ này. Quả là đại hỷ, đại hỷ.”

Đêm ấy, mọi người ăn uống say sưa đến tận canh ba. Có tin quân báo, Sĩ Giao loạng choạng tỉnh dậy bước ra ngoài trướng nhận quân lệnh.

Tiếng vó ngựa dần xa phía Tây, Sĩ Giao bước ra ngoài trời nhìn thấy Tồn Thăng vẫn còn đang đứng ngay ngắn, tay cầm chiếc thương dài uy nghi đứng đó. Thấy Sĩ Giao đi ra, Thăng cúi chào. Sĩ Giao đỡ lấy người Thăng lên rồi hỏi:

- Đêm khuya sao em không đi ngủ.

Tồn Thăng cúi gằm mặt, hai tay trước ngực vắt chéo mà nói:

- Bẩm anh. Thăng em trước ngỗ ngược khiến mọi người trong làng bị liên lụy, sau lại bị tên huyện quan tham lam tàn sát. Chẳng nghĩ là các anh còn đây, em tìm đến rượu để nguôi sầu, nuôi mộng báo thù. Đêm nào cũng trằn trọc chẳng thể ngủ được nên mới lấy dao ra rạch mình.

Sĩ Giao vỗ vai, rồi lấy áo choàng mình khoác lên cho Tồn Thăng:

- Em mặc áo này vào, ngày mai ta sẽ cho lính may cho em một bộ quần áo để diện kiến chủ công, chứ không thể đóng khố như thế này mãi được. Trên cao ông trời có mắt đã cho anh em ta đoàn tụ. Lại diệt được giặc nước, thù nhà. Em còn điều gì trăn trở mà chưa thể ngủ được?

Tồn Thăng giọng lại sang sảng:

- Bẩm Đỗ tướng quân. Nay anh đã là quan sĩ, cánh tay đắc lực của Thiên thanh tướng. Uy vọng khắp vùng Giao Châu này rồi. Anh cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Em thấy đám lính canh đã mệt mỏi bấy lâu. Em bảo bọn chúng đi ngủ. Em sẽ đứng đây canh giấc ngủ cho anh cùng mọi người. Em cũng nóng lòng gặp lại tên tiểu tử Chí Liệt để đánh với hắt một trận hả hê.

Sĩ Giao nở một nụ cười hiền từ, nhẹ nhàng dặn dò Tồn Thăng:

- Thăng này. Ngày mai diện kiến chủ công. Ta thấy một điều thế này. Em cho là phải thì nghe. Tính tình em các anh em đây thì có thể hiểu. Nhưng khi gặp chủ công và thiếu chủ thì…

Tồn Thăng nhanh nhảu:

- Cái đó Thăng em hiểu chứ. Ngày mai em sẽ quấn khăn kẻo khiến chủ tướng cùng mọi người kinh hãi.

Sĩ Giao gỡ miếng da dê trên khuôn mặt Thăng xuống. Sĩ Giao nhăn mắt rồi lại đeo lại cho Thăng. Sĩ Giao nói:

- Em hãy cứ mang miếng da dê này nhé. Ta đã nghĩ ra cho em một cái tên. Đó là Dương Diện. Dương là đồng âm với họ của chủ tướng, diện là khuôn mặt. Em đeo miếng da dê này để cho người đối diện bớt kinh hãi, Dương Diện ấy cũng là biệt hiệu cho em vậy. Sau này, được phong tướng soái thì em sẽ là Dương Diện tướng quân Đỗ Tồn Thăng.

Nghe được phong hiệu, Thăng mừng hớn hở. Chạy khắp doanh trại hò hét ầm ĩ. Sĩ Giao ra hiệu cho hắn ngược trở lại và giữ im lặng trong quân doanh. Sĩ Giao cầm tay Thăng rồi dắt vào trong lều trại. Hai người hồi tưởng những chuyện đã qua. Đến hồi Sĩ Giao kể đến chuyện hai người Tồn Thành và Do Độc gặp nhau thì gã đã lăn quay ra ngủ, ngáy khì khì từ lâu.

Sĩ Giao phe phẩy chiếc quạt lông xua bớt đi cái oi nóng của mùa hè và cười khẽ. Sĩ giao ngồi viết thêm vài trang báo cáo quân tình để khi mặt trời lên hồi báo với Dương Thanh.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành

Chương 2.3 Tìm cướp gặp thầy tu

Về phía Dương Thanh, sau khi Dương Thanh chiếm được La Thành, đánh đuổi bọn quan triều đình phương Bắc chèn ép dân An Nam, Dân chúng Giao Châu và sáu châu quận ở An Nam lấy làm hả hê lắm. Bọn Man Hoàng kinh hãi mà rút sâu về núi rừng phía Tây Bắc Giao Châu, bọn Nam Chiếu cùng lập tức rút quân khỏi các châu cơ mi xung quanh Phong Châu. Bọn lính người bắc, kẻ đảo ngũ chạy trốn, kẻ tự vẫn đến cả nghìn người.

Các viên quan từ cấp thứ sử xuống đến hương trưởng, hào trưởng ai nấy đều quy hàng họ Dương, tôn Dương Thanh là chủ tướng đứng đầu vùng đất Lĩnh Nam. Nhưng bên cạnh đó, không ít kẻ vẫn còn chưa tâm phục họ Dương, bên ngoài thì thừa nhận nhưng trong lòng không phục. Một số kẻ thì rút về các châu cơ mi để né tránh sự kiểm soát của họ Dương.

Nghe tin thắng trận từ khắp mọi nơi từ trấn Hải Môn đến các vùng lân cận Ái Châu, Giao Châu, Phong Châu. Dương Thanh lập tức cho gọi các tướng sĩ về La Thành để phong thưởng theo công trạng của từng người.

Lựa được ngày đẹp, Dương Thanh cho mở tiệc mừng công tại La Thành. Đám quan lại, tướng sĩ ai nấy mặt mày mừng rỡ. Kẻ chở rượu quý, người dâng thóc gạo trâu ngựa đổ dồn về Tống Bình. Sĩ Giao mất đến nửa ngày đọc công trạng của từng người, kẻ công lớn làm tướng đứng đầu, ban phát ruộng đất. Người bắt giữ, chém được giặc ít cũng được thưởng mười nén bạc, cùng với đó là đất ruộng quanh Giao Châu, Phong Châu, Võ An châu, Trường Châu phì nhiêu.

Tan tiệc, Sĩ Giao thấy Tồn Thành và Do Độc có vẻ không vui, liền hỏi:

- Tại sao các em lại buồn như vậy.

Do Độc toan nói thì Tồn Thành cản lại, cúi gằm mặt nhận giấy lãnh ân điển bước đi. Đi được một đoạn thì cả hai lên ngựa chạy về phía Đông rồi mờ dần theo bụi đường.

Đêm ấy, Sĩ Giao tìm được hai người ở thành Luy Lâu đang uống rượu tại một quán khách nhỏ đơn sơ. Sĩ Giao ngồi xuống cạnh Do Độc, cầm ly rượu lên tu ực một cái thật đã rồi hỏi:

- Các em cớ sao lại như thế?

Chén rượu đầu môi, Tồn Thành quay mặt đi giọng phừng phừng:

- Sĩ Giao nói với tụi em là theo Thiên Thanh tướng ắt sẽ lập được công danh. Sĩ Giao giờ là quân sư của Dương tướng lại tước Giao Châu thứ sử. Bọn em đây truy sát địch quá Hải Môn quan. Mọi công lao lớn nhỏ đều được Uyển kia nhận hết. Có anh chứng kiến đấy. Bọn em vẫn nguyên chức cũ, đất không tăng thêm một mảnh. Há là kẻ vô danh tiểu tốt còn được lãnh thưởng. Nghe xong công trạng mà chẳng thấy được vui, chạy tới đây kiếm tửu giải sầu.

- Các đệ chớ hiểu lầm chủ tướng. Người làm chủ tướng, bao việc còn bộn bề phải lo. Bản công trạng lệnh ấy ban đầu ta viết để trình tướng chủ nhưng sau đó lại giao cho Triệu Hoằng xét lại. Bọn Đoàn Uyển châu Ái, Đỗ Anh Toàn, Đỗ Cảnh Tung Trường Châu, Trần Phiến An Vũ châu đút lót cho hắn. Triệu Hoằng vốn kẻ tham đút lót nên đã sửa công lao của mấy tên kia. Nhiều chỗ ta đọc thấy chưa xuôi nhưng trước mặt chủ tướng ta chẳng thể nói sai. Các đệ cũng đừng lấy thế làm buồn phiền. Việc này ta sẽ báo cho chủ tướng.

Do Độc và Tồn Thành nghe vậy cũng mừng. Tồn Thành sau được Dương Thanh điều làm An Nam đô úy, lãnh toàn bộ quân đội Ái Châu chỉ dưới quyền Đoàn Uyển. Do Độc được phong Phong Đông đô úy, lãnh binh tại Phong Châu dưới quyền chỉ huy của thứ sử châu ấy là Vương Thăng Triều.
Ba ngày sau, Tồn Thành cùng con trai cầm tám trăm lính về Châu Ái. Do Độc cùng cha nhận hai nghìn quân về tới Phong Châu đóng quân tại Lâm Tây. Sĩ Giao được Dương Thanh phong hiệu Bá Nam quân sư, quân quyền chỉ dưới họ Dương. Gã Quỷ Dương Diện ở lại làm An Nam hộ sư lang tướng, ngày ngày ở cạnh Sĩ Giao. Còn Lão Đỗ Đại sau khi đánh thắng người man ở vùng Lâm Tây được phong làm Chu Diên huyện úy, đất trăm mẫu tả ngạn sông Cái. Đỗ Trang, Đỗ Kiêm được ra khỏi nhà lao Nhật Nam làm giám quân dưới quyền Tồn Thành.

Lại nói Sĩ Hoàng em trai Sĩ Giao cùng người hương Yên Hưng là Đỗ Dụng bị bọn Lục Bạch Hổ bắt cách đây đã ba năm mà không hay tung tích. Sĩ Giao xin Dương Thanh hai trăm lính cùng bọn Đỗ Đại, Tồn Thăng, Chí Liệt hướng đi từ La Thành đến Luy Lâu khoảng ba chục dặm đường là núi Tiên Du. Cánh núi phía bắc ấy chính là chỗ mà bọn cướp ấy đóng ở đó.

Đêm tháng tám ngày mồng ba, mấy người lán lại thành Luy Lâu. Mờ sáng nghe thấy tiếng tấp nập ngoài thành, Sĩ Giao tỉnh dậy hé cửa nhìn ra ngoài thì thấy dân chúng trong thành người người quần áo tươm tất, trẻ con được dìu dắt cùng người lớn nô nức đi ra cổng phía Tây thành Luy Lâu. Không thấy Dương Diện quỷ ở trong nhà trọ, Sĩ Giao toan đi tìm.

Sĩ Giao khẽ mở cửa phía sau thấy vết chân lớn và bức tường đất còn nguyên dấu người trèo qua. Sĩ Giao vội mở cửa thì thấy Tồn Thăng đang đánh lộn với hai chàng trai trẻ. Sĩ Giao hỏi:

- Đêm khuya sao em lại đi đánh lộn với người ta?

- Quân sư huynh. Hai tên này nhân lúc mọi người tấp nập ngoài này đã lẻn vào phòng trọ định trộm cắp bị em bắt được muốn chạy trốn thì em bắt được.

Hai tên kia thanh niên trai tráng nhưng không thể nhúc nhích dưới tay của “gã Quỷ”, chỉ lắp bắp xin tha mạng.

Sĩ Giao hỏi:

- Nguyên cớ sao trai tráng lại đi trộm cắp của người ta?

Tên trẻ tuổi hơn quỳ gối xuống vái sống hai người:

- Xin các quan nhân tha mạng. Chúng con có mắt mà không thấy núi cao. Mấy tháng nay đánh nhau liên miên. Nhà bọn con nuôi mẹ già trẻ con cả thảy mười mấy miệng ăn mà giờ chỉ còn có hai hộc gạo. Chỉ tại cái tên này xui mà con chót dại. Thương tình con mong các vị tha mạng.

Sĩ Giao mắng té tát:

- Các người không cần phải kể lể. Vừa rồi thắng trận, Dương tướng chẳng phải đã mở kho thóc, phát lương cho dân nghèo sao. Ban nãy, không phải là em ta thì các ngươi chẳng phải là đã được vớ hĩnh rồi sao. Các ngươi tội gì thì sẽ được quan huyện xét xử.

Giọng Sĩ Giao lại nghiêm nghị hỏi:

- Ta hỏi các ngươi. Trong thành có chuyện gì mà giữa đêm lại tấp nập đến vậy?
Tên mặt già hơn sợ hãi quá, nói thủ thỉ trong miệng mà không phát ra tiếng khiến gã Quỷ giận giữ, rồi nhấc bổng hắn lên:

- Lại còn không nói hả?

Hắn nài niết Tồn Thăng tha mạng. Tên trẻ hơn lại nói:

- Bẩm các quan gia. Tháng rồi, chỉ sau khi Dương tướng quân làm chủ Đại La. Ngoài thành Luy Lâu về phía Tây Nam có một vị viên ngoại họ Nguyễn dựng một ngôi chùa có mời thầy tu từ Hòa An tự là đệ tử Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải ghé. Từ bấy, môn khách từ khách hẳn đông lên và dân chúng thì đến ấy nghe giảng đạo ngày càng đông. Ngày hôm nay, các vị sư sãi chùa ấy làm lễ mừng phật quy tự, ấy nên dân chúng dậy từ buổi sớm sắm lễ đến ấy mà tỏ lòng thành.

- Thế nên các ngươi mới có ý định “xin” chút lộc phật có phải chăng?

Sĩ Giao sai Thăng trói hai người này vào cột nhà bằng thừng trão để sớm mai giải hai người ấy lên huyện phủ. Sáng ngày sau, Chí Liệt cùng Dương Diện Quỷ đưa hai tên trộm kia trình báo quan huyện. Đỗ Đại cùng Sĩ Giao ra khỏi thành từ sớm hướng về hương Phù Đổng.

Suốt dọc đường đi, hai người họ gặp trai tráng, phụ nữ, người già trẻ con nối đuôi nhau dài đến cả vài dặm đường. Có người nhận ra hai người thì cúi chào:

- Hai vị Đỗ tướng quân cũng đi bái phật đấy à?

Sĩ Giao ôn tồn đáp lễ lại mọi người:

- Chỉ là bọn ta có chút công chuyện đi ngang qua, không biết là ngày tháng này tại đây lễ hội gì mà lại đông như vậy?

- Hai vị tướng quân thật là không biết hay sao? Hương Phù Đổng có vị cao tăng từ Trung Nguyên về đây tu hành. Hạnh pháp tinh thông nổi danh khắp vùng này. Nay lại mở lễ phật quy tự nên dân chúng tôi đến để tỏ lòng hành.

Sĩ Giao và Đỗ Đại bái biệt dòng người, thúc ngựa đi tách về phía đông hướng thẳng núi Tiên Du rồi rẽ tắt qua một con kênh đào. Đỗ Đại quan sát con kênh nước khá lớn e dè nói:

- Sĩ Giao này. Nay đầu tháng tám, nước sông lớn khiến kênh nước ngập đồng. Ngựa này khó mà qua được con nước.

Sĩ Giao nhìn về đám đông bên kia dòng kênh trong bụi đất rồi thở dài:

- Chắc có lẽ phải quay lại Luy Lâu để đi lại thôi.

Tiếng ngựa hý vang, có một viên đá ném trúng đầu Đỗ Đại. Đỗ Đại thất kinh quát lớn:

- Là kẻ nào đánh nén.

Có giọng cười lớn từ dưới con kênh. Sĩ Giao nhăn mặt quan sát. Thì ra là một vị tiểu hòa thượng. Khuôn mặt nhỏ nhắn, da trắng, mặt trái xoan mình nhỏ khoác chiếc áo gụ còn thùng thình, tay trước ngực cúi chào:

- Hai vị quan nhân xin thứ lỗi. Là do tiểu tăng không nhìn rõ lầm hai vị là giặc cướp Lục hổ nên đã thất kính.

Đỗ Đại quát lớn:

- Cái tên Tiểu tử nhà ngươi.

Sĩ Giao gạt lại, nói lớn:

- Này vị tiểu sư phụ. Sao lại không ở trong tự lại ra ngoài chống bè trên sông?
Vị tiểu hòa thượng cười lớn, đôi mắt như nhắm lại:

- Là sư phụ sai ta ra đây trồng rau trông cướp. Hai vị quan nhân đến đất này có việc gì? Nếu đi xem phật thì đi từ Luy Lâu sang mới có cây cầu nhỏ để đi. Quanh đây kênh lớn bao quanh, chẳng có đường mà đi đâu.

- Tiểu sư phụ cho chúng tôi nhờ bè qua con nước để vào chùa xem phật được chăng? Chúng tôi đi từ Tiên Du xuống, không biết đường mong tiểu sư phụ châm chước cho hai chúng tôi.

- Hai vị ơi. Xem phật thì phải tự tâm, băng qua gian khó để tỏ lòng chứ sao lại đi đường tắt, cậy nhờ người khác. Tăng tôi không thể giúp gì được cho hai vị rồi.
Nói rồi, Đỗ Đại quát lớn:

- Tiểu tử kia. Đứng lại. Chớ có khua môi múa mép.

Dòng nước trôi nhanh, tiểu hòa thượng ngoảnh đầu quay đi, thoắt cái đã biến mất sau lùm cây bên kia dòng kênh. Đỗ Đại cởi bỏ hộ giáp, lấy thừng ngựa bện lấy áo quần buộc chặt lấy con dao nhỏ quẳng trúng bè đang đậu bên kia dòng. Rồi nhẹ nhàng kéo sang bờ này mời Sĩ Giao lên bè. Ngựa bước lên, chòng chành mảng bè, Sĩ Giao nói:

- Để ta xuống ngựa sang trước. Rồi anh quay lại dắt từng con ngựa sang đó.

- Cái tên tiểu tự ấy thật ngốc. Đã không cho người ta đi thì mang bè lên bờ mà cất đi. Đây lại còn chẳng neo chặt ở bờ.

Hai người vừa đặt chân sang bờ kia thì lại là tiếng cười ban nãy. Đỗ Đại trông sang bờ thì thấy vị tiểu hòa thượng đang ngồi trên ngựa, giọng lanh lảnh nói vọng sang:

- Hai vị mượn bè của ta mà không hỏi, vậy hai người hãy cho ta mượn ngựa.
Nói rồi, hai con ngựa chạy thẳng về Đông. Sĩ Giao nói với Đỗ Đại:

- Ta cứ qua đây được rồi thì vào xem tình hình thế nào rồi hãy quay lại tìm tiểu sư phụ ấy.

Đỗ Đại ấm ức trong lòng nhưng vẫn chịu theo Sĩ Giao đi bộ chừng ba trăm thước thì gặp có hai vị hòa thượng mình trần đang gánh nước tưới rau. Đỗ Đại nói nhỏ với Sĩ Giao:

- Sĩ Giao đệ. Hai người bọn họ thật không bình thường. Một người trông thật dữ dằn như báo cọp. Một người nhìn mắt liên hồi chớp đảo như phường trộm cắp.
Sĩ Giao tiến lại gần thì một người làm rơi thùng nước, giương cây đòn lên đánh thẳng vào ngực Sĩ Giao. Đỗ Đại thân thủ nhanh nhẹn đỡ lấy Sĩ Giao, tay khum nắm đấm hòng ra tay thì người còn lại mặt hoằm hoằm nhìn vào Đỗ Đại. Sĩ Giao tự đỡ mình dậy, cản Đỗ Đại đứng ra phía trước.

- Hai vị hòa thượng đây chắc có chút hiểu lầm rồi.

Vị hòa thượng râu ria xồm xoàm, mắt cọp bước lên, tay vẫn giữ chắc chiếc đòn, giọng nặng trĩu tiếng Quỳnh châu:

- Hai ngươi là người bất chính. Trước giờ kẻ đi vào đất này mà không qua cầu Đông không phường cướp trộm thì là dân dị mọi chạy trốn.

Sĩ Giao đưa quân bài ra thì hai gã hòa thượng này nhìn nhau rồi không ai bảo ai thu gậy lại rồi tận tình đưa hai người họ Đỗ vào chùa.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành

Chương 2.4 Hạnh duyên kỳ ngộ

Hai anh em họ Đỗ đi được chừng trăm bước tiến vào ngôi chùa thì đột ngột hai người quay lại dùng đòn nhằm chân Sĩ Giao và Đỗ Đại mà đánh. Đỗ Đại né được, còn Sĩ Giao may có thanh kiếm ngang hông nên đỡ được chiêu hiểm của hai vị tăng nhân.

Đỗ Đại lại lớn tiếng hỏi:

- Hai ta không thù không oán cớ sao lại đánh. Bọn ta đây có công chuyện nên mới ghé qua. Hai ngươi còn đụng thủ thì đừng trách ta.

Sĩ Giao ôn tồn:

- Ta là người của Dương tướng chủ. Nay đến đây có công chuyện cớ sao hai người lại ngăn cản ta.

- Đừng có già mồm. Hai ngươi đừng hòng qua mắt được bọn ta. Trước giờ chỉ có lệnh bài của quan thống sứ, các huyện phủ. Chứ chưa nghe quân bài Dương tướng. Mà nếu có thì các ngươi cũng có thể là giả.

Giọng nói khó nghe, Lão Đại hỏi lại:

- Các ngươi là tăng ni từ đâu đến đây dám hỗn xược với cả Sĩ Giao quân sư.

Sĩ Giao lại nói:

- Anh Đại không cần phải nói vậy. Hai vị chắc cũng biết. Thống lĩnh Tống Bình giờ là Dương Thanh tướng chủ. Tại hạ là Đỗ Sĩ Giao, hầu tướng dưới chủ công. Nay nghe danh đại sư đến đây trước là để tỏ lòng ngưỡng mộ, sau là muốn được tận thỉnh Giáo Phật của Đại sư để thông tuệ, sáng nhãn.

Nói xong, hai vị hòa thượng vẫn không tin lời, một mực đổ cho hai người họ Đỗ là phường cướp trộm dùng côn thuật nhằm thẳng hai người mà ra sức đánh. Sĩ Giao chỉ né đỡ mà không đụng dao kiếm sợ tổn hại nơi tôn nghiêm thanh tịnh. Đỗ Đại ra sức chống trả lại hai vị đó.

Đánh được gần trăm hiệp, hai người đó không khuất phục được Đỗ Đại. Nhân lúc Đại không để ý đến, vị tăng nhân mắt bé, miệng ếch đột ngột tung gậy đánh mạnh một đòn nhằm vai phải Sĩ Giao. Đỗ Đại rút gươm chặt gãy đôi cây gậy khiến hắn kinh hãi lùi lại ba bước. Đoạn Đỗ Đại giương gươm lên thì có vị tăng nhân bước ra mang trên mình áo cà sa vàng, mặt tròn đẹp như hoa toát lên vẻ từ bi, da trắng như tuyết, mắt sáng rạng rỡ, đôi tai lớn chảy xuống hai bên cằm. Sĩ Giao ngỡ Phật tổ mà chắp tay vái:

- Phật Tổ anh linh. Nam mô a di đà.

Vị ấy nói với giọng Quỳnh Châu:

- Bần tăng có thể giúp gì được hai vị quan nhân hay chăng?

Sĩ Giao cùng Tồn Thành thành kính đáp lễ với vị tăng nhân. Tồn Thành nói:

- Hai anh em từ phía mạn Tiên Du đến, nghe rằng có vị cao tăng tại chùa, qua đây trông thấy cảnh chùa tôn nghiêm lại muốn ghé thăm để bày tỏ sự mến mộ.

Vị Cao Tăng hiền từ đáp lời:

- Hai vị hẳn không phải là người xứ này. Đức Phật từ bi mở rộng tấm lòng đón nhận hai vị. Chăng hay hai vị tên họ thế nào?

- Ta tên Giao người châu Ái, đây là Đỗ Đại người Yên Hưng, huyện Ninh Hải, Lục Châu. Nghe có vị cao tăng tại chùa nay lại có lễ Phật quy tự nên hai chúng ta đến thăm bày tỏ tấm lòng thành. Có chút lễ mọn mang theo cùng ngựa nhưng qua sông bị một thiếu niên gạt ta lấy đi mất rồi.

- Hai vị có lòng thành hướng tâm tới phật đâu cần phải lễ lạc cao dày. Hai vị đệ tử của ta đây có gì thất kính mong hai vị lượng thứ.

Nói rồi, vị hòa thượng ấy dáng người thong thả bước vào chùa. Đỗ Đại nói với Sĩ Giao:

- Này em trai. Ta thấy có gì đó không ổn. Mong em cẩn thận.

Hai người đi theo ba vị tăng nhân bước vào chùa bằng cửa phía Bắc, đi qua hai gian tự phía sau và khu hậu viên hoàn toàn được dựng bằng đá hoa cương. Mùi thanh sắc của đá mới mài khiến Sĩ Giao thấy gai người. Bước vào phía trong là cả thảy chín chín tám mốt gian chùa được dựng bằng gỗ lim, gỗ sến với kiến trúc kỳ quái.

Đi được một nửa số gian thì Sĩ Giao và Đỗ Đại không thấy ba vị hòa thượng kia nữa. Đi qua gian thứ năm mươi chín thì Sĩ Giao lạc mất Đỗ Đại. Còn Đỗ Đại thấy mình như mất phương hướng tìm cách đi ra ngoài. Bước ra khỏi khuôn viên ngôi chùa. Đại thấy có tiếng người nhí nháu phía hậu điện thì tiến tới dò la. Một cú trời giáng khiến Đỗ Đại ngất lịm. Còn Sĩ Giao biến mất trong mênh mang của gần trăm gian tự nơi đây.

Phía cửa nam, dòng người nườm nượp đổ về ngày một đông hơn. Kẻ đội lễ trên đầu, người bê ngang hông đặt lên trước điện rồi khấn vái. Chí Liệt và Tồn Thăng chen lấn mãi rồi cùng vào được trong tự. Chí Liệt nói với Thăng:

- Anh quỷ này. Chúng ta đã đến đây cũng đã hơn hai canh giờ rồi mà vẫn chưa thấy hai sư huynh đến. Trời nóng nực như thế này mà mọi người chen nhau vào đây thất là ngột ngạt quá. Chùa lớn, nước sơn vẫn còn mới, đá gạch này không phải là loại ở đất Giao Châu này dễ kiếm.

Gã Quỷ nói lớn:

- Chắc ở đây nhiều nhà sư lắm. Ta không thích bọn đầu trọc ấy. Suốt ngày lẩm nhẩm trong mồm cái gì gọi là kinh phật. Lại không được uống rượu ăn thịt. Sống thể thì sống làm gì. Phải không?

Chí Liệt chỉ cười rồi phát hiện ra có hai vị tăng nhân mặt hung dữ đang lúi húi ở phía tả viên. Chí Liệt ra hiệu để gã Quỷ đi theo hai người đó. Đi qua ao sen nhỏ và một chiếc cửa lớn, hai tên này mở gói bọc mà hai tên ấy vừa gói ghém mang tới đây. Nào là gà, thịt xôi nếp, sẵn đấy là hai vò rượu nếp thơm lừng. Gã Quỷ nhảy xổ ra quát tháo:

- Hai tên trộm cướp nhà ngươi. Dám giả danh hòa thượng để lấy cắp đồ lễ hả?
Dứt lời, Chí Liệt không kịp cản gã quỷ, Thăng xông thẳng vào chỗ hai kẻ ấy dùng gậy đập vỡ chum rượu. Chí Liệt nói:

- Chỗ thanh tịnh chớ có gây ồn ào, lão Quỷ.

Hai tên kia mặt mũi hung tợn, tay lấy vội hai cây đòn nhăm nhe toan đánh gã Quỷ. Gã Quỷ gầm gào, nhìn thấy thịt rượu lại nhỏ nước miếng. Hai tên kia cười lớn:

- Các người mới là kẻ ăn cướp. Hà cớ gì lại đi theo bọn ta đến đây. Bằng cách nào mà các ngươi lẻn được vào đây?

Chí Liệt khảng khái:

- Ta thấy hai ngươi khả nghi mới đi theo tới đây. Các ngươi là hòa thượng mà lại ăn thịt uống rượu?

- Liên can gì các ngươi. Có giỏi thì la lớn lên. Ở đây không ai nghe thấy gì đâu.
Hai tên hòa thượng cười lớn khiến Gã Quỷ nóng mặt dùng sức xông thẳng vào hai người đó. Gã quỷ lấy mảnh chum vỡ còn vương chút rượu đưa lên miệng uống một hơi vẫn còn thòm thèm. Hai tên kia song côn đánh thẳng vào người Gã Quỷ. Gã Quỷ quay lại lao thẳng về phía gã tăng nhân mắt bé, miệng ếch dùng hết sức cánh tay mà nhằm vào bụng hắn khiến hắn không thể trở tay kịp thổ huyết tại chỗ. Tên kia thấy thế ra sức dùng đòn đánh vào vai và gáy gã quỷ. Chí Liệt dùng gươm đỡ nhưng không thể cản lại sức mạnh của đòn võ dị của hắn. Gã quỷ mặc cho hắn vụt vào người, tay xé phanh con gà mà ăn. Miệng chưa lau khô, như thêm sức mạnh, Gã Quỷ dùng sức tay phá tan cây đòn làm tư khiến tên kia lùi lại vài bước.

Có vị tiểu hòa thượng chạy ra luôn miệng “Nam mô ai di đà phật” thoăn thoắt ra đòn rồi khóa trái khiến Chí Liệt không kịp trở tay. Gã Quỷ quát tháo:

- Tiểu tử ngươi từ đâu đến. Thả Thiện tướng em trai ta mau.

Tiểu hòa thượng nhanh nhảu nói:

- Lại là hai người nữa. Giọng nói không khác hai kẻ kia. Các ngươi là đồng bọn của nhau có phải không?

Tăng nhân mặt hổ bảo nói giận dữ:

- Chính y. Hai tên này và hai tên lúc sáng cùng một ruộc. Tiểu sư huynh nhìn hông phải của gã đeo mặt lạ đó thì thấy. Hình săm Long ngư.

- Các ngươi đến đây có ý đồ xấu gì?

- Tiểu tử kia. Mau thả thiếu chủ ra. Không thì đừng trách ta.

Nói rồi, Gã Quỷ nhấc bổng chiếc bàn đá lên mà quẳng về phía tiểu hòa thượng. Tiểu hòa thượng né vội rồi chạy nhanh về phía hậu viên. Chí Liệt cản lại bước chạy của Gã Quỷ rồi trói hai tên hòa thượng kia lại. Dò hỏi thì biết được Sĩ Giao và Đỗ Đại đã bị hai tên hòa thượng kia lừa vào trong chùa mà bị lạc. Lại biết được ngôi chùa lớn này là của Lý Tượng Cổ dựng lên. Trước khi Tượng Cổ bị chết thì có một nhà sư họ Trịnh đã tới đây.

Hai người tiến sau vào phía trong chùa, mở từng cánh cửa thấy chùa uy nghiêm lộng lẫy khiến cho cả hai tâm trí như đảo lộn. Càng tiến sâu vào trong chùa, những tượng đồng, tượng gỗ nối nối nhau, hương khói nghi ngút ngập tràn khắp các gian thờ. Như lạc vào cõi mơ, Thăng thét lớn lên một tiếng thì có tiếng kiếm rút nhanh khỏi bao vun vút trong làn khói mờ ảo. Ánh kiếm hắt lên khuôn mặt thư sinh, Chí Liệt vội thu kiếm lại, kiếm vô tình chạm vào vai người ấy. Thăng gào lớn:

- Quân sư đại ca.

Sĩ Giao kéo hai người ra khỏi gian thờ lộng lẫy vừa rồi chạy vào một gian lạnh ngắt, không khí ngột ngạt toàn bụi ẩm mốc. Gã Quỷ lớn tiếng hỏi:

- Lão Đỗ Đại đâu? Sao lại chỉ có mình huynh ở đây?

Sĩ Giao nhỏ nhẹ hiệu cho Gã Quỷ nói nhỏ lại, trần tình:

- Ta đã đi hết khắp các gian chùa mà chẳng thấy lối ra, gian nào cũng y gian nào chỉ có chỗ này là thật khác. E là có kẻ ý xấu đã đưa ta vào bẫy này. Bây giờ thiếu chủ cùng ta đi men theo các cánh phía tả, Thăng em hãy bám sát theo bọn ta đánh dấu những cánh cửa đã đi qua, quan sát phía sau xem có động tĩnh gì hay không.

Nói rồi từ phía sau có cánh tay vỗ vai Chí Liệt, ánh lửa bỗng bùng lên. Có vị hòa thượng mặt dài, miệng rộng, cánh mày lá liễu co sát với nhau như một đường thẳng, mũi thẳng như cây tre, hai tai trĩu xuống như hai quả lựu hai bên. Sĩ Giao không khỏi giật mình hỏi:

- Nhà ngươi là ai? Sao lại ở đây.

- Bần Tăng họ Thị, hiệu đạo là Lập Đức. Các vị hãy đi theo bần tăng ắt tìm được lối ra.

Ba người e dè đi theo vị hòa thượng ấy, từng lớp cửa được mở ra khe khẽ. Đến cánh cửa gian cuối cùng, ánh sáng chiếu vào khiến khuôn mặt của Gã Quỷ hiện ra ngày một rõ hơn. Vị hòa thượng kia hỏi:

- Các ngươi là ai tại sao lại tới đây? Nhìn người này tướng chẳng khác chi giặc cướp.

Thăng cau mày, khuôn mặt gã lại hằn lên những hình thù xấu xí, giọng oang oang:

- Cái tên hòa thượng kia. Các ngươi mới chính là cướp. Biết bao nhiêu lễ vật người dân đến lễ, các ngươi không đi phát lộc cho chúng sinh mà đổ tiền dựng chùa lớn, đúc tượng to, ngày ngày khói hương nghi ngút lại còn ăn vụng chốn cửa chùa. E là bọn tăng ni các ngươi…

Sĩ Giao cản lời:

- Tồn Thăng chớ nói xằng.

Ánh nắng chiếu qua khe cửa rọi thẳng vào tấm lưng vị hòa thượng, vết chỉ sờn như muốn vạch tấm lưng ấy ra. Vai áo vị hòa thượng được vá với miếng vải màu nâu gụ. Đôi chân trần bước qua nền đất lạnh lẽo rồi bước ra ngoài hiên nắng rực đang phơi toàn là cây khô đã héo cong từ bao giờ. Chiếc áo cà sa đã bạc màu đập vào mắt Sĩ Giao, Sĩ Giao trộm nghĩ “Chùa lớn, lộc nhiều há lại kiệm như vậy?”

Trời đã giữa trưa, ba người cảm thấy đói lả, ánh mắt mệt mỏi Sĩ Giao hỏi:

- Nắng như thiêu đốt. Sư phụ không đi giày cho khỏi bỏng chân.

- Niệm phật kinh qua. Đặng đó xá gì.

Sĩ Giao lại hỏi:

- Sao sư biết chúng tôi ở đó mà dẫn chúng tôi tới đây.

- Thiên duyên ấy thôi. Các vị ngồi tạm đây chừng mấy khắc nữa ăn bữa cơm chay cùng với bần tăng.

Nói rồi vị tăng ấy nhanh nhẹn bước đi. Bóng đa phủ xuống xua bớt cái nắng nóng. Hai người cởi hộ giáp, nhặt lá ấy mà phe phẩy. Bỗng chốc lại có cơn gió nhẹ phớt qua nhẹ đi cái oi bức ấy.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ hai:

Phủ Tống Bình tướng người Nam giết sứ.

Chùa Kiến Sơ, Bắc đại sư phục Thành

Chương 2.5 Đại sư phục thành

Chí Liệt tiến vào trong gian tự quan sát một hồi. Mái hiên ngói đất đã mục xanh, cây xà sơn mới nhưng chẳng giấu đi được mục nát bên trong. Mở cánh cửa lớn bằng gỗ đã bị thủng vài chỗ là một ngôi chùa nhỏ. Bước qua cổng tam quan là hồ sen lớn, bao quanh là lối đi dẫn vào một chùa năm gian chồng diêm, hai tầng, gỗ lim, gỗ gụ, gỗ táu tróc nửa lớn màu sơn.

Năm gian chùa và khuôn viên cảnh chùa ấy là theo kiểu nội công ngoại quốc thường chỉ có ở xứ Giao Châu này. Trước tiền đường về phía bên trái có một chiếc khánh đồng được đỡ bằng khung gỗ sơn đỏ còn mới, phía phải là chuông đồng cũ có khắc chữ “Nam Thiên Kiến Quốc Tự chung”.

Sĩ Giao, Chí Liệt hai người ngồi nghỉ dưới gốc đa lau đi những giọt mồ hôi, làn hương trầm phảng phất khiến hai người thiu thiu. Tiếng chuông chùa vang vang chẳng theo nhịp lối cùng lúc tiếng ngựa hý vang gốc cây thị nơi ngoài cổng chùa khiến hai người tỉnh giấc. Gã Quỷ cười hớn hở:

- Không ngờ chùa cũ mà lại có chuông âm thật hay.

Tiếng lớn vọng lại từ cửa chùa:

- Thiếu chủ, Sĩ Giao đấy à!

Tồn Thăng bỏ dùi chuông xuống chạy vội tới chỗ Đỗ Đại mà hỏi:

- Là sư huynh đã đi đâu?

Đỗ Đại ồn tồn nói:

- Khi ta cùng với Sĩ Giao vào ngôi Đại Tự bên phải ngôi chùa này đã bị lạc. Ta cố trốn chạy ra ngoài thì thấy phía sau sảnh chùa có đám người nói giọng Quỳnh châu đang bàn bạc chuyện gì đó. Sau đó thì ta ngất lịm. Tỉnh dậy thì đang nằm bên cạnh hai con ngựa nơi gốc thị đằng kia. Mọi người làm sao mà biết chỗ này?
Gã Quỷ, ngậm quả thị rồi chỉ về phía vị hòa thượng ban nãy. Hai vai gánh trĩu hai thùng nước đổ vào chum lớn gần bếp lửa. Gánh nước rồi vội vã đun nước, làm cơm chay. Đỗ Đại chạy tới diện kiến, thấy dáng hình tựa phật mà cúi người vái rằng:

- Chẳng hay là sư phụ đã cứu tôi tới đây.

Vị sư ấy mải miết từng hạt cơm trắng muốt, hòa nước cho đủ thanh mát rồi vội vàng đưa vào phía trong. Phía bên trong chùa, tượng lớn Phật tổ Bồ đề Đạt ma tay cầm một chiếc hài, bên trái là tượng phật mẫu Ma – ya, cùng bên phải là tượng Bồ tát quan âm ngự đầu rồng, tất cả đều sạch sẽ bụi trần.

Tọa thiền dưới đó là một vị tăng, dáng người mảnh khảnh, đôi ta lớn trĩu xuống hai bên cằm. Bốn người bước chân vào, tăng ấy chẳng hề nhúc nhích. Chẳng nói chẳng rằng, Lập Đức đặt bát cơm cùng chút rau thanh đạm rồi cúi người bước ra. Sĩ Giao cất lời hỏi:

- Bọn thí chủ chúng tôi bái kiến sư phụ.

Không một lời đáp lại, Tồn Thăng quát lớn:

- Này cái tên tăng nhân kia! Dám khinh thường bọn ta sao?

Đỗ Đại ôm lấy Thăng mà kéo ra ngoài. Lập Đức hòa thượng liền nói:

- Các vị thí chủ xin mời qua gian hữu, bần tăng sớm bày cơm chay các vị cùng dùng bữa.

Cơm bày lên, hai niêu cơm rời cùng mẹt rau luộc mềm. Tồn Thăng gắt gỏng:

- Cơm này chúng ta ăn làm sao! Sáng giờ chẳng có gì ăn. Vào chùa thì đánh đấm với bọn tăng nhân ăn thịt uống rượu mệt gần chết. Rượu đâu mang ra đây cho ta.
Sĩ Giao can Gã Quỷ lại:

- Dương Diện đệ hãy trật tự. Chốn xuất gia không được ăn nói bừa bãi.

Chí Liệt quan sát vị tăng tọa thiền kia vẫn chẳng nhúc nhích. Lập Đức nhỏ nhẹ, chắp tay trước ngực mà nói:

- Nam mô a di đà phật! Thí chủ bỏ xá cho. Tăng chúng tôi lấy tu tâm làm đầu, chay tịnh ấy là điều chẳng thể khác được. Nếu vị tướng quân này mong cầu rượu thịt thì thật ngại tăng tôi không thể giúp được.

Lời nói phật rót tai khiến Dương Diện mềm lòng mà ăn lấy cho hết một niêu cơm trắng. Cùng bữa, Chí Liệt hỏi Lập Đức:

- Sư ấy là ai sao mà đến lạ. Chẳng nói chẳng rằng.

- Sư lấy thiền tịnh tu tâm nên gọi là thiền sư. Tính tình Sư điềm đạm ít nói, nhưng thông minh, sáng suốt ấy thế mà gọi là Vô Ngôn Thông. Từ ngày sư về đây chỉ có ngồi một chỗ mà thiền, chẳng nói lấy một lời.

- Cơm nước thì ai chăm?

- Là bần tăng.

- Ngài ấy có nói gì với Lập Đức sư phụ hay chăng?

- Từ khi ngài ấy về đây cũng đã hai mùa xuân hạ mà chưa được nghe.

Sĩ Giao lại hỏi:

- Có nghe tiếng thiền sư mà nay được hạnh ngộ. Ấy sao dân chúng ngoài kia kêu rằng thiền sư giảng đạo, lũ tăng nhân kéo tới nườm nượp? Thật là có điều gì không phải?

- Chùa lớn bên này là Đại Đường Nam tự. Ba năm trước quan sứ cho dựng lên, cạnh Kiến Sơ tự này. Ban đầu ta được mời sang tự ấy mà tu cùng với những tăng từ Quỳnh Châu tới. Sau này ta thấy kẻ ra người vào tự toàn là những bậc quan nhân, quân tướng. Ta e điều không hay nên đã cùng tiểu đệ tử tọa thiền nơi gốc thị kia hướng về Tiên Du Sơn ngày ngày đọc kinh.

Nói tới đây, có vị tiểu hòa thượng khi nãy xuất hiện. Tiểu hòa thượng này nghiêm trang hành lễ mà bái Ngôn Thông, Lập Đức cùng bốn người.

Đỗ Đại thảng thốt:

- Là vị tiểu sư phụ này chẳng?

- Bẩm quan đúng thế. Đây là đệ tử của tôi tên là Phong. Sáng này có thất lễ với các vị quan nhân mong các vị bỏ quá cho.

Dương Diện ăn xong niêu cơm trắng, chỉnh lại miếng da dê trên mặt mà nói:

- Cái tên tiểu tử này, sáng nay đánh với ta lại còn khống chế cả thiếu chủ. Tội ngươi đáng phạt trăm roi.

Tiểu hòa thượng lém lỉnh nói:

- Là thí chủ mặt quỷ kia gây sự trước.

Chí Liệt cười lớn nói:

- Vị tiểu sư phụ này nghệ công thật chẳng dám chê. Lập Đức sư phụ vừa có nói đến việc tu tại gốc thị ấy, ngày ngày lấy đọc kinh mà tu hành. Chẳng hay sao lại không vào ngôi chùa nhỏ này?

Tiểu sư phụ nhanh nhảu đáp:

- Đất này là của vị hương hào họ Nguyễn. Trước ở núi Tiên Du đã mến mộ đức hạnh của sư phụ từ lâu, nay lại thấy người tu nơi gốc thị ấy mà lấy tâm tình để mời sư phụ ta dựng chùa tính từ gốc thị trở về Tây nam chừng hai trăm trượng. Thoạt đầu, sư phụ ta không dám nhận. Đêm ấy nằm cạnh sư phụ dưới gốc thị lại hiện lên thần nhân mách rằng: “Theo ý của họ Nguyễn, chẳng mấy năm sẽ được điều lành lớn.” Sau ấy nghe lời thần nhân, sư phụ mới đồng ý với vị hương hào ấy. Họ Nguyễn ấy dỡ nhà lập chùa tỏ lòng, lại cho người đắp tượng, đúc chuông…

Lập Đức từ tốn nói:

- Tâm tức là Phật. Đệ tử chớ khoe khoang.

Lại kể rằng Đại Đường Nam tự kế bên ấy bọn tăng lữ vốn không phải người Nam, đến đây lấy tiếng là Đại thiền sư, ngày ngày giảng kinh pháp, lễ bái triền miên làm hao tâm tốn lực của bọn dân chúng Giao Châu ấy. Vị tăng nhân mặt đẹp tựa thần tiên, mặc áo cà sa khi sáng dẫn Đỗ Đại cùng Sĩ giao vào Đại tự hiệu là Giả Thường, nhận mình là Đại tăng, cũng là đệ tử Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải, có pháp lực hô mưa hoán vũ, lại truyền bá kinh phật, nhận cả trăm người làm đệ tử. Hai vị tăng kia hung dữ kia vốn cùng thiền sư Vô Ngôn Thông về Kiến Sơ này mà bị bọn chúng dụ dỗ sang tự ấy mà làm điều sằng bậy, tham tục rượu thịt. Lại được biết bọn ấy là tay sai của viên sứ Tượng Cổ nên Chí Liệt bàn với Sĩ Giao:

- Nơi này nhiều ẩn tình. Không thể xem thường được. Ta phải sớm về báo cho Tướng phụ biết.

Đoạn rồi, Chí Liệt bái biệt ba người rồi cùng mười người tùy tùng về La Thành báo tin cho Dương Thanh. Ba người ở lại chùa Kiến Sơ đợi quân tiếp viện lên núi Tiên Du truy quét bọn cướp Lục Hổ.

Mấy ngày ở lại chùa, không khí tĩnh lặng trầm mặc khiến ba người ấy như bỏ hết đi những phiền muộn, gột bỏ đi những bụi bặm chiến trường sau thời gian chiến đấu vừa qua. Vị Tăng kia không nói gì mà chỉ ngày ngày ngồi quay mặt vào bức tường thiền. Sĩ Giao lại thấy sư Lập Đức ngày ngày chăm chút cho vị thiền sư ấy chẳng có lấy một thiếu xót. Sớm gánh nước tưới rau, cùng đệ tử ra sông giặt giũ áo cà sa, chiếu nệm. Trưa lại cơm trắng cùng rau hai niêu mang cho thiền sư. Chiều tới gánh nước từ kênh đun lên mời thiền sư tắm. Tối đến ngồi thiền cạnh sư rồi nâng giấc cho Tăng ấy.

Đêm cuối ba người tại tự, bỗng nhiên có ngôi sao sáng rực phía nam, lửa dưới bếp cháy phừng phừng. Sĩ Giao thấy vị tiểu hòa thượng đang lúi húi dập lửa thì Lập Đức lấy vạt áo mà dập lửa liên hồi lại ôm lấy vị tiểu hòa thượng mà chạy ra. Chẳng mấy chốc vạt áo cháy lẹm đến vai. Tiểu sư vẫn lấy nước mà dập. Mắt lệ rưng rưng, miệng vẫn liên hồi nhẩm rằng:

- Nam mô a di đà.

Tiểu hòa thượng kia khóc nấc lên, dập đầu liên tục xuống nền đất:

- Là tại đệ tử bất cần. Trông nồi nước mà đề tử lại ngủ quên mất.

Lập Đức cháy mất vạt áo cà sa cũ, nhìn gian bếp ấy cháy mà lệ ròng ôm lấy đệ tử:

- Đệ tử chẳng có lỗi gì cả. Là ta phước mỏng chỉ là muốn chăm chút cho Thiền sư ấy mà lại ra như thế. Thật là đáng thương cho đệ tử của ta.

Nói rồi, từ gian tự bước ra, vị Tăng kia bước tới, khoác lên Lập Đức áo cà sa. Dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt thanh tú, nước da ngăm ngăm khắc khổ, gò má hóp vào, đôi mày bạc trắng rủ xuống hai bên đuôi mắt, râu bạc tựa tiên, giọng nói thanh điện, Tăng ấy nói, nước mắt chảy ra:

- Bấy nay, ta thật cảm kích với tấm chân thành của ngươi. Nay nhận ngươi làm đệ tử, truyền tâm giáo cho ngươi. Gọi ngươi là Cảm Thành. Áo cà sa này, sư tổ Hoài Hải tặng ta. Nay ta tặng cho ngươi.

Lập Đức lấy làm vui mừng, vội cùng đệ tử bái ba lạy để tỏ lòng tôn kính. Sư dắt tay Lập Đức vào mà bàn rằng:

“Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sư tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, vì truyền pháp này. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ tổ, vẫn dòng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rõ chỗ đắc pháp. Nay niềm tin đã thuần thục, thì y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.

Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mã Tổ Đạo Nhất, Mã Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này có nhiều người hâm mộ Đại thừa, vì thế mà đến phương Nam để tìm thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyên đã sẵn. Nghe ta nói kệ:

Các nơi đồn đại

Dối tự huyên truyền

Rằng Thủy Tổ ta

Gốc từ Tây Thiên.

Truyền pháp Nhãn tạng

Gọi đó là Thiền

Một hoa năm cánh

Hạt giống liên miên.

Thầm hợp lời mật

Muôn ngàn có duyên

Đều gọi tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên cõi này

Cõi này Tây Thiên

Xưa nay nhật nguyệt

Xưa nay sơn xuyên.

Chạm đến thành trệ

Phật tổ thành oan

Sai đó hào ly

Mất đó trăm ngàn.

Ngươi khéo quán sát

Chớ lừa cháu con

Ngay như hỏi ta

Ta vốn không lời.

Chư phương hạo hạo

Vọng tự huyên truyền

Vị ngô thủy tổ

Thân tự Tây thiên.

Truyền pháp nhãn tạng

Mục vị chi thiền

Nhất hoa ngũ diệp

Chủng tử miên miên.

Tiềm phù mật ngữ

Thiên vạn hữu duyên

Hàm vị tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên thử độ

Thử độ Tây Thiên

Cổ kim nhật nguyệt

Cổ kim sơn xuyên.

Xúc đồ thành trệ

Phật tổ thành oan

Sai chi hào ly

Thất chi bách thiên.

Nhữ thiện quán sát

Mạc trám nhi tôn

Trực nhiêu vấn ngã

Ngã bổn vô ngôn.”

Nghe xong bài kệ, Cảm Thành liền lãnh ngộ. Sĩ Giao lấy đó làm điều đáng mừng, liền sai người tu sửa ngôi chùa để Tăng Sư cùng ngồi nói về kinh đạo.

Sớm hôm sau, Sĩ Giao cùng Đỗ Đại, Tồn Thăng lên ngựa hướng Tiên Du mà tiến, để lại chùa ba chục lính tráng khỏe mạnh để sửa lại chùa.

Lời bàn:

Xưa ta nghe chuyện tiên thần

Long Ngư xuất hiện chúng dân nương nhờ

Ấy rồi tai họa bất ngờ

Con dân đỏ máu lững lờ nước trôi

Sứ quan nhấp nhổm đứng ngồi

Xứ biên nổi loạn, bề tôi hận lòng.

Người sông đục, kẻ nước trong

Bao năm oán hận thầm mong có ngày

Cờ ai đang phất trao tay

Vượt sông thành trống, người ngay kẻ hèn

Quyết tâm sống mái một phen

Rửa oan quê cũ được khen anh hùng

Ấy còn giặc cướp bên sông

Quá sơn gặp tự tấm lòng thanh tao

Tâm người rộng lớn biết bao

Sớm trưa, chiều tối chẳng nao núng lòng.

Đêm thanh gió thổi nhà không.

Lửa kia thiêu đốt vàng ròng chẳng phai.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
3
:
Ngày tham gia :
21/08/2016
:
Tuổi :
24
:
Đến từ :
nghĩa trang linh hồn
:
Bóng Ma Độc Hành
Bóng Ma Độc Hành

Bóng Ma Độc Hành
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 3
Ngày tham gia : 21/08/2016
Tuổi : 24
Đến từ : nghĩa trang linh hồn
truyện rất hay, bạn cố gắng viết nhiều hơn nhé.
nội dung truyện là mình cang yêu thêm lịch sữ nước ta...thank bạn đã viết nên nó...
và cho mình hỏi, những bài thơ (tạm gọi vì mình không biết phải gọi sao) trong truyện bạn tìm ở đâu vậy? Nó khá hay và ý nghĩa nên mình hỏi thế thôi...



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Bóng Ma Độc Hành đã viết:truyện rất hay, bạn cố gắng viết nhiều hơn nhé.
nội dung truyện là mình cang yêu thêm lịch sữ nước ta...thank bạn đã viết nên nó...
và cho mình hỏi, những bài thơ (tạm gọi vì mình không biết phải gọi sao) trong truyện bạn tìm ở đâu vậy? Nó khá hay và ý nghĩa nên mình hỏi thế thôi...

Cảm ơn bạn đã ủng hộ truyện của Quốc.
Những bài thơ là do Quốc đề tựa vào trong truyện.

Có đoạn Vô Ngôn Thông truyền đạo pháp cho Cảm Thành là trích từ lời tựa trong sách phật giáo nói về thiền sư Vô Ngôn Thông. ^^



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.

Chương 3.1 Ảo mộng chân tình

Đang lúc đi diệt bọn cướp Lục Bạch Hổ, Dương thiếu chủ quay trở về La Thành khiến Thiên thanh Dương tương không khỏi ngạc nhiên. Dương thiện tướng bẩm báo sự việc tại Đại Đường Nam tự cho cha nghe. Dương Thanh tỏ vẻ không hài lòng. Lại sai người giả làm tăng lữ về chùa ấy để theo dõi thêm tình hình ở chùa ấy. Chí Liệt cầm thêm hai trăm lính nữa hướng núi Tiên Du tăng viện cho Sĩ Giao, mưu diệt sạch lũ cướp khét tiếng vùng ấy.

Cầm lính đi qua Đại tự ấy, Chí Liệt không ghé lại nữa mà truyền lệnh cho hai trăm lính hợp quân với Sĩ Giao, hơn trăm quân lính của Si Giao trú tại thành Luy Lâu, được lệnh cho đóng quân tại chân núi phía nam Tiên Du. Quân không mang theo cờ xí, không dựng trại mà ở núp dưới những gốc cây, tảng đá lớn mong đánh nhanh bọn cướp. Ngày hôm sau, đám lính người ôm bụng, kẻ ôm ngực đau đớn suốt cả ngày. Chí Liệt mới hỏi Sĩ Giao:

- Không hay nơi này khí hâu thế nào mà quân sĩ lại biểu hiện như thế?

Sĩ Giao đáp rằng:

- Núi này vốn là núi thiêng, hay ta đi dò hỏi cho ra lẽ.

Nói rồi, Sĩ Giao sai Tồn Thăng cùng mười tên lính đi quanh núi, gặp một nhà dân cùng một ngôi chùa đã cũ. Sĩ Giao lại nhớ rằng vị hòa thượng Lập Đức tại Kiến Sơ tự có nhắc đến ngôi chùa này. Đêm ấy, Sĩ Giao sai năm tên lính soạn sửa trái cây, xôi nếp cùng với đó là nhang thơm cả thảy là chín nén, lại thêm đăng sáng. Chí Liệt kêu đám lính tráng kiện di dời các pho tượng ra mà lau rửa, sau ấy đặt lại uy nghiêm chỗ cũ. Đám Đỗ Đại, Tồn Thăng vào rừng gần đó chặt được chín cây gỗ lim cùng bảy cây gỗ táu mang về dựng lại cột chùa. Đến gần sáng thì đám lính tráng cũng tu sửa xong mái chùa thì tự dưng đám lính không còn thấy đau bụng tức ngực nữa. Chỉ riêng Sĩ Giao thấy trong người mệt lả, thiếp đi dưới gốc cây si trước cổng chùa.

Sĩ Giao thấy người nhẹ như bay, nhún chân một cái đã lên đến trên đỉnh núi. Áo của Bá Nam quân sư bị mắc tại đám thông. Chàng gỡ một hồi thì chân chạm xuống mặt đất. Đang bước chân đi, quân sư thấy muôn vàn thú đá chạy quanh núi. Chàng lại ra hiệu cho đám thú ấy biết sự có mặt của chàng. Chúng chạy từ Nam ngược Bắc dường như không hề biết sự có mặt ấy của chàng rồi tan vào mây trên đỉnh núi.

Lấy làm lạ, Sĩ Giao bèn bước thêm vài bước nữa thì thấy một khung cảnh chốn tiên thần. Đi qua cổng dựng bằng trúc, chàng thấy ao rồng, tường thạch. Sân ấy có phiến đá nứt gãy lớp lớp những đường kẻ như bàn cờ. Chàng bay vút vào trong thì thấy hai ông lão râu tóc bạc phơ đang đánh cờ. Chàng lại nhìn thấy một anh tiều cầm búa gác gốc thông đứng nhìn hai ông lão đánh cờ. Một lát sau cây búa mục lúc nào chẳng hay, hai lão tiên ấy biến thành khói cuộn vào mây bay lên trời để lại bàn thạch hai chữ Lạn Kha. Chàng tiều phu ban nãy cũng biến mất vào rừng sâu hun hút.

Sĩ Giao tiến tới bàn thạch, lấy tay chạm vào. Thạch trơn nhẵn bóng, chàng vuốt ve phiến đá ấy, nhắm mắt hình dung tựa chạm vào bồng lai. Chàng mở mắt ra thì có nàng tiên đang nằm trên ấy, trên người chẳng một mảnh lụa. Chàng vội vàng rụt tay lại thì cánh tay của nàng tiên ấy kéo lại, Sĩ Giao gục mặt vào phiến đá lúng túng cởi chiếc áo trên người mình mà khoác lên cho nàng ấy.

Từ phía xa bỗng có đám con gái từ chân núi đi lên nói cười khúc khích, chàng nhìn ra phía ấy. Có cô thôn nữ tuổi chạc tuần trăng cất giọng trong trẻo mà ghẹo chàng:

- Chàng ơi! Tiên nữ giáng trần.

Tay run đờ đẫn như đần như ngu.

Tới đây tiết mới sang thu.

Thạch bàn vững chãi, đánh đu hỡi chàng.

Sĩ Giao nhìn ra phía đông thì có cây đu dựng bằng đá, mấy cô gái ấy đang chơi trên ấy nhí nháu gọi chàng. Chàng quay ra nhìn bàn đá, nàng tiên khi nãy không còn nằm ở đấy, chàng ú ớ gọi nhặt lên một mảnh vải hồng thơm thơm mùi trầm. Ấy rồi tay chàng thấy có dính ướt từ bao giờ chẳng hay. Gió lên, mây đen từ phía nam kéo đến ùn ùn, mấy cô con gái cũng không còn lưu lại đấy. Chàng giật mình tiếng sét bên tai.

Sĩ Giao choàng tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn xunh quanh. Thấy đám lính hớt hải chạy mưa, mang sơn cùng gỗ vào phía trong mái chùa vừa dựng. Chí Liệt gọi lớn:

- Bá Nam quân sư. Còn đứng đó mong chờ điều chi? Tay quân sư, mảnh vải hồng từ đâu mà có?

Sĩ Giao đầu óc mơ màng, tay dính ướt dụi mắt, chàng nói:

- Bẩm thiếu chủ. Là đệ vừa mơ giấc mơ thật lạ. Tỉnh dậy đã thấy khăn hồng trên tay.

- Chạy vào trong chùa rồi kể lại cho ta nghe.

Chàng kể lại cho Thiện tướng, Thiện tướng cho đấy là điềm mừng liền sai lính đi sửa soạn lễ vật, nhang đăng chính ngọ ngày mai lên đỉnh núi làm lễ. Sĩ Giao mở miếng lụa ra, tiếng sét xé tan tiếng mưa rào rả rích, ánh sáng hắt vào hiện lên trên mảnh vài chín chữ thành một hàng sắp xếp theo đúng lối: “Dương Tử Tiền Cao Hưng Bá Ngô Vương Chủ”, phía dưới còn đề một bài thơ:

“Dương gian hỏa ánh hồng

Tử ngục thủy thành giang.

Nhất chí đồng cam khổ

Quảng nhân chính dị sàng.”

Chí Liệt hỏi trên đó đề gì, Sĩ Giao ấp úng:

- Dạ bẩm, chỉ là vài nét nguệch ngoạc chắc khi tối Gã Quỷ nghịch ngợm rồi nhét vào tay ta. Lát nữa ngủ dậy sẽ phạt đệ ấy.

Vội vàng Sĩ Giao ném mảnh vải ấy vào đống lửa đốt đi. Dương Chí Liệt quay lại thấy vải cháy còn một góc chữ Dương, lại thấy Sĩ Giao ấp úng, liền hỏi:

- Có chắc là không có gì trên đó hay không? Sao lại là chữ Dương. Mau gọi Gã Quỷ dậy.

Gã Quỷ bấy giờ trong cơn say mê mệt gọi ba tiếng không thấy dậy. Chí Liệt nhìn mặt Sĩ Giao lấm lét mà sinh nghi, gọi cho bằng được Gã Quỷ tỉnh dậy. Chí Liệt xách một thùng nước mưa vừa hứng được dội vào mặt Gã Quỷ. Gã Quỷ tỉnh dậy cầm lấy dao quắm cạnh người mà quát tháo:

- Là kẻ nào hắt nước vào ta?

Chí Liệt phủi tay cho khô đáp:

- Là ta gọi ngươi dậy đấy.

Sĩ Giao không kịp cản thì Gã Quỷ cầm lấy dao dương lên xông thẳng về phía Chí Liệt. Chẳng chút nương tay, gã ra đòn sấm rền đất rung. Từng chiêu xuất ra như nghìn cân giáng xuống. Chí Liệt không đánh lại mà chỉ dùng cây gậy chống những đòn ấy. Gã Quỷ hung tợn không khiến Chí Liệt nao núng. Đám lính cạnh đó xô vào giữ lấy gã Quỷ. Gã gồng mình lên, chiếc áo giáp đứt bung ra tứ phía. Bọn lính sợ hãi lui ra cả đám. Chí Liệt cười lớn:

- Để nay ta sẽ cho ngươi tâm phục khẩu phục.

Nói rồi, Chí Liệt dùng gậy đánh thẳng vào cánh tay cầm dao của Gã Quỷ. Gã Quỷ người như đá sắt, không hề hấn gì quay dao mưu chặt gãy côn của Chí Liệt. Thiện tướng nhanh như sóc thu cây gậy về, mình quay năm vòng trên không liên tiếp vụt trúng lưng và gáy Gã Quỷ. Gã quỷ đứng yên, gầm gào trong tiếng sấm, mắt liếc nhìn thiếu chủ.
Gã vứt bỏ giáp áo, mình còn lại chiếc khố sờn rách. Từng vết sẹo trên người hắn nổi lên như những tổ kiến, tổ mối khiến cho người khác phải khiếp sợ. Chí Liệt bình tĩnh múa côn, lộn tiếp ba vòng dùng sức đầu gậy đánh thẳng vào ngực Gã Quỷ.
Dương Diện hết sức bình sinh ném thẳng dao quắm về phía thiếu chủ. Thiếu chủ né nhanh, dao ấy cắt đôi cột lim, mái chùa phía ấy rơi xuống vài ba viên. Dương thiếu chủ dùng gậy đánh với gã quỷ hai trăm hiệp thì trời sáng. Gã Quỷ đứng ra phía trước gậy của thiếu chủ khiến thiếu chủ không nỡ ra tay. Chí Liệt hỏi:

- Nhà ngươi nhận thua hay sao?

Gã cười lớn, mặt méo xệch:

- Ta đói quá! Từ đêm qua đến giờ uống rượu mà không được ăn gì nên đói. Ăn xong ta lại đánh với ngươi.

Tất cả lại cươi ồ lên. Đỗ Đại sai người mang xôi thịt lên cho hắn ăn. Chí Liệt vỗ vai hắn trêu trọc hắn:

- Nhà ngươi võ thuật không có, thậm chí không bằng đứa trẻ con. Chí có cái khỏe và liều là ta không bằng ngươi.

Dường như gã chẳng quan tâm đến lời thiếu chủ nói. Gã hỏi:

- Nhà ngươi gần sáng hắt nước vào mặt ta có ý gì?

- Ta thấy nhà ngươi đi đánh nhau mà uống rượu đến say sưa, chẳng may địch đến đánh bất ngờ nhà ngươi ứng phó thế nào.

- Ngày trước ta làm tướng cướp trên núi Yên. Nửa đêm có mấy đứa định chém ta nhưng rồi chúng nó chết trước ta. Nhà ngươi khỏi lo.

- Đấy là bọn lâu la không tính.

- Ngày trước ở Đỗ Gia Trang, ta đánh nhau với bọn lính người Bắc cũng vậy thôi. Chẳng khá hơn là mấy. Có Sĩ Giao quân sư chứng kiến đó.

Chí Liệt như nhớ ra chuyện khi đêm hỏi Sĩ Giao, lại hỏi Gã Quỷ:

- Nhà ngươi ngày qua lên núi kiếm gỗ củi có thấy gì hay không?

- Ta thấy thú rừng đi chơi, chim ca nhảy nhót và khe suối nhỏ ở đằng kia.

- Còn gì nữa hay không mà ngươi đi từ chiều đến khi mặt trời khuất núi mới về?

Thấy gã ấp úng, Chí Liệt giật lại niêu xôi về phía mình mặt nghiêm nghị hỏi:

- Nhà ngươi còn giấu giếm điều gì hay không?

Gã nhìn Sĩ Giao lắc đầu liền lắp bắp:

- Ta… ta có gặp mấy đứa con gái lên núi hái quả nên đi theo bọn nó.

- Hái quả ở đâu? Nhà ngươi hung tợn như quỷ dữ, ngươi đi theo bọn ấy chúng thấy ngươi chẳng chạy mất à?

- Ơ hay. Ta thì sao? To khỏe như ta bọn con gái đứa nào chẳng thích.

- Cái mặt nhà ngươi ấy, ta là con gái thì ta chạy trốn cho nhanh chứ to khỏe gì. Nói mau. Bọn nó lên đấy làm gì? Rồi có chuyện gì xảy ra.

- Thì ta theo bọn con gái ấy đến đỉnh núi, thấy có mấy gã ở đấy đợi bọn ấy đến. Thế rồi bọn nó giao hợp với nhau ở cái bàn đá trên đỉnh núi cao kia. Đợi bọn nó giao hợp xong, có đứa con gái mặc áo hồng mặt đẹp như tiên nữ đi sau cùng ta bắt được rồi giao hợp với nàng. Nàng chẳng chống cự gì lại còn nũng nịu ta ở lại chơi với nàng ấy nên ta mới về muộn. Nàng còn tặng ta mảnh vải hồng làm tin, hẹn ta chiều nay quay lên đỉnh núi gặp nàng.

Bọn lính tráng xì xào bàn tán, Chí Liệt mặt nghiêm nghị:

- Việc quân tình không lo, lại còn đi chơi bời, trai gái. Quân sư ghi lại phạt hắn trăm roi để hắn nhớ cũng là để cho những kẻ khác lấy đó làm gương.

- Đợi ta ăn xong rồi hãy phạt. Đánh ta hai trăm doi cũng được.

Gã cười hả hê. Ăn xong Gã tự mình sai hai tên lính to khỏe nhất cầm roi mây đánh lên người hắn hai trăm roi. Đánh được một trăm roi thì hai tên lính tay mỏi rã rời, hai tên khác ra thay. Đánh hai trăm roi đã rồi, Gã như được giãn gân cốt đứng dậy vươn vai cạnh đó là chục cái roi mây đã nát vụn. Bốn tên lính mệt nhoài vội chạy đi sợ gã nhớ mặt lại rước họa về sau. Gã kéo một tên lại nhấc cổ lên, mặt tên ấy tái xạm như con gà vừa bị cắt cổ xin gã thả xuống. Gã cười lớn rồi thả tên lính tội nghiệp kia xuống đất:

- Bọn bay lính tráng mà đánh người như gãi ngứa vậy đánh giặc, bắt cướp làm sao? Bọn cướp vốn hung tợn, máu liều chém giết không ghê tay. Chỉ e thấy chúng các ngươi co vòi mà trốn chạy.

Nói rồi Đỗ Đại sai đám lính dựng lại cột chùa vừa gãy, tên nào tên ấy mệt mỏi rã rời sau một trận mưa đêm. Thấy bọn lính uể oải, Chí Liệt nói với Sĩ Giao:

- Rừng thiêng nước độc, càng ở lâu e rằng bọn cướp lợi thế hơn. Sĩ Giao có kế gì hay chăng?

Sĩ Giao nhìn về phía chân núi có mấy cây gỗ mục và đám lá khô, một con cáo đuổi theo một con gà tre. Cáo vồ nhanh về phía con gà, gà nhảy lên cành cây phía trước thì cáo bị thụt sâu dưới đám lá cây cố ngoi ngóp lên trong vô vọng. Sĩ Giao nhoen miệng cười gọi Gã Quỷ lại gần nói nhỏ vào tai gã, xong rồi bàn bạc với Chí Liệt một hồi. Đám lính khi đó chạy ra bắt lấy con cáo xẻ thịt nấu cháo sang chia cho được gần hai mươi người ăn.

Nắng lên xiên qua ngọn cây, Chí Liệt vẫn mải miết luyện binh và không ngừng nghĩ về mảnh vải hồng mà Sĩ Giao sáng nay đã đốt. Không yên lòng nhân lúc Sĩ Giao đi thám thính tình hình, Chí Liệt lại gọi Gã Quỷ tới dò la. Gã Quỷ nghĩ là Thiếu chủ muốn đánh nhau bèn ra chiêu trước nhưng được hai chục hiệp thì Thiếu chủ khóa thế dừng đánh, lại rót vào tai Gã Quỷ lời dụ:

- Sáng này đương dở câu chuyện. Ngươi hãy kể tiếp cho ta. Cô gái kia đưa mảnh vải ấy rồi thế nào?

Gã Quỷ cười lớn:

- Mảnh vải hồng ấy à? Nàng ấy viết tên ta lên đó. Nàng ấy hỏi tên ta, ta bảo nàng ấy viết tên ta và nàng ấy lên mảnh vải ấy để làm tin. Chiều nay ta sẽ dắt huynh đệ qua đó gặp bọn con gái ấy..

- Có thật là như thế chăng?

- Là thật. Nhà ngươi không tin thì chiều nay ta dẫn người đến đó. Ngươi chọn lấy một nàng.

- Ta không hỏi chuyện đó. Là những chữ trên mảnh vải kia. Nhà ngươi họ Đỗ tên Thăng, cớ sao lại có chữ Dương trên đó?

- Ta không biết chữ nên mới nhờ nàng ấy. Mà tên ta là Dương Diện hộ sư tướng Đỗ Tồn Thăng. Có chữ Dương đấy.

- Dương Diện là mặt dê chứ đâu phải chữ Dương kia.

- Xằng bậy. Quân Sư huynh nói với ta, Dương Diện là mặt trời sáng rực giác ngộ tâm ta u tối.

Nói vậy, Chí Liệt mới chẳng nghi ngờ nữa. Đỗ Đại đi tuần núi nửa ngày, báo lại cho Chí Liệt thiếu chủ :

- Bẩm Thiếu chủ. Xung quanh phía nam núi này có nhiều hố sâu, ong lấy nó làm tổ đến cả trăm. Sĩ Giao sai ta cùng đám lính đi kiếm lá có, cành khô mục đánh đủ hai đống cao ở kia. Xin thiếu chủ liệu việc.

Chí Liệt nói với Đỗ Đại sai hai chục tên lính dọn sạch cỏ bụi dẫn đường đến những tổ ong ấy, cho người đi lại thật nhiều để đất ấy phẳng nhẵn như đường đi đã có từ lâu. Chí Liệt chia cứ hai lính một hố sâu đầy ong phủ lên lá khô và cành mục, lại lựa ra miếng gỗ dày mỏng khác nhau đi qua mỗi hố ấy. Một lối đi chắc chắn người giẫm lên cũng không rơi xuống, một lối đi chỉ cần giẫm nhẹ cả người sẽ rơi xuống hố đầy ong.

Sau giờ mùi, Chí Liệt cho quân phục tại mỗi hố ấy như đã định từ trước. Đỗ Đại cùng Gã Quỷ cùng hai mươi tên lính cởi bỏ hộ giáp, người nào người nấy bôi đất lên người, nhem nhuốc. Kẻ đóng khố, người áo quần xộc xệch, tay mang theo đoản đao, giáo ngắn hướng đỉnh núi phục sẵn ở đấy chờ đám con gái lên chỗ ấy giao hợp.

Đến giờ thân ba khắc, như lời Gã Quỷ nói đám con gái ấy đến lưng núi thì đám lính xô ra tóm lấy mỗi người một cô gái, còn hơn hai chục đứa túm tụm với nhau sợ hãi. Đám con gái thấy người lạ mặt hốt hoảng la toáng lên. Gã Quỷ nhảy ra dùng đoản đao kè cổ cô gái đi đầu, dọa lớn:

- Lũ con gái các ngươi. Im lặng! Không ta cho một đao chết cả lũ bây giờ. Ngoan ngoãn chiều theo ý bọn ta thì sẽ được sống. Đừng có để ta mang tiếng giết đàn bà.

Bọn con gái thi nhau cúi vái xin tha mạng. Nói rồi, Đỗ Đại ra hiệu cho mấy ả. Đỗ Đại giọng vang vang nói:

- Lũ con gái các ngươi. Không ở nhà lo liệu việc nhà, khăn nhung áo lụa thơm tho đến núi hoang này là cớ sao?

Có người con gái chỉnh lại áo tóc, dáng thướt tha, nước da trắng ngần như tuyết đỉnh Mẫu Sơn, tóc đen nháy tựa mun gỗ, đôi mắt ngọc xanh biếc bước tới, giọng yểu điệu sướt mướt :

- Bẩm các huynh đệ. Bọn tiểu nữ chẳng dám giấu. Ngày trước làng phía chân núi Đông Bắc trù phú, màu mỡ. Từ khi quan sứ Hành Lập về Giao Châu này, bắt trai tráng trong làng đi lính, đánh giặc Chà Và, Lâm Ấp, mọi rợ Man Hoàng, cả đám thanh niên trai tráng phải đi, số về thì thương tật, còn lại thì ở trong quân ngũ. Còn lại lũ con gái chúng tôi. Nơi đây, cả mấy vùng xung quanh đây cũng như vậy.

- Thế nên các ngươi đến đây tìm bọn cướp cho thỏa khao khát làm vợ hay sao? Bọn ta cũng là cướp đây. Đi theo bọn ta, có cơm ăn áo mặc, khỏi phải chốn chui lủi ở xó núi này. – Gã Quỷ trêu ghẹo đám ấy rồi cười ngặt nghẽo.

Cả đám cười lớn. Đỗ Đại quắc mắt nhìn khiến bọn lính im bặt.

- Ấy thế mà các ngươi bán mình cho giặc cướp hay sao?

- Nói ra chỉ sợ các anh hùng khinh bọn tiểu nữ. Bọn này cũng là chân yếu tay mềm. Đương đêm bọn chúng vào làng cướp phá. Lũ con gái chúng tôi cùng với người già, trẻ con sao có thể chống lại được. Thôi đành ngậm ngùi theo bọn chúng. Nay chẳng thể rời được.

Đỗ Đại toan thả bọn gái ấy ra. Thì thầm vào cô gái ban nãy nói điều gì đó rồi cho lệnh thả đám con gái ấy đi. Mặt nàng kia đon đả, lẳng lơ gọi bọn con gái ấy lên núi. Gã Quỷ thấy lạ hỏi Đại :

- Miếng ngon đến miệng, sao anh nỡ thả bọn chúng đi.



Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.

Chương 3.2 Thiện tướng Bình Nam đả tứ hổ

Đỗ Đại thả đám con gái đi vào trong núi khiến mấy tên lính bứt rứt trong người toan đuổi theo đám con gái ấy. Đỗ Đại ra hiệu cho đám lính lui lại. Mỗi người tìm lấy một gốc cây, tảng đá lớn để núp. Chưa đây một khắc sau, toán con gái ấy cởi bỏ xiêm y, mỗi người chọn cho mình một chỗ như đã định sẵn từ đầu. Có một cô gái còn chần chừ không cởi. Đỗ Đại sinh nghi theo dõi từng động tĩnh của cô gái ấy. Còn đám lính kia chằm chằm nhìn về bọn con gái đang ở trần với ánh mắt thèm khát.

Từ phía sườn trái xuất hiện chừng trên chục tên cướp kè kè bên mình là giáo dài, trường đao. Có tên dáng vẻ thủ lĩnh đi từ sườn núi phải sau đấy là mười mấy tên lâu la.

Bọn lâu la toan cởi quần áo chọn lấy cho mình một cô gái thì tên thủ lĩnh ấy gọi một tên khác lại gần bàn bạc to nhỏ. Ánh mắt đong đưa của cô gái ban nãy khiến Gã Quỷ không kiềm chế được tạo tiếng động lớn, cây thông gãy xuống. Cô gái khi nãy chưa bỏ xiêm y hét lớn lên :

- Các anh ơi. Bọn cướp vặt kia định giở trò đồi bại với tụi thiếp.

Hô lớn, Đỗ Đại cho đám lính nhảy ra, tay giữ chắc đoản đao cùng giáo ngắn. Gã Quỷ thét lớn :

- Lũ giặc cỏ các ngươi còn không chịu đầu hàng. Ta là Dương Diện Lão Quỷ Đỗ Tồn Thăng đây.

Tên thủ lĩnh đứng lên đầu ra hiệu cho đám lâu la tập hợp gươm giáo như muốn ăn tươi nuốt sống Gã Quỷ cùng bọn lính. Y cười lớn :

- Ra là gã mặt quỷ! Chui rúc đám quan lại Tống Bình mà làm tướng đây à! Ngày trước đánh nhau với huynh trưởng ta ở bến Bình Than chẳng suýt mất mạng, nay tới đây nạp mạng chăng.

Gã Quỷ gào thét khiến cây rung, chim bay toán loạn. Đỗ Đại quát lớn :

- Lũ cướp các ngươi còn không mau đầu hàng.

Nói rồi hai chục tên lính xông lên phía trước khua múa đao kiếm vờ như đánh. Bấy giờ đám lâu la giương gươm giáo toan đánh lại thì Đỗ Đại ra hiệu cho đám lính chạy tứ phía theo đường mà Thiếu Chủ đã tính từ trước đó. Chạy được một đoạn thì cứ mỗi nhánh đường thêm hai lính chạy ra, chẳng mấy chốc số lính đông gấp đôi bọn cướp.

Nhìn vậy, tên thủ lĩnh huýt sáo cho bọn lâu la chạy lại. Có tên dáng người thấp tẹt, mũi to như quả cà chua, đầu quấn khăn vàng, mắt híp tiến đến thủ thỉ vào tai tên thủ lĩnh :

- Ta mắc bẫy chúng rồi.

Hắn cười lớn:

- Cái tên thất phu nhà ngươi! Phàn Du trước giờ dùng mưu giết chết bao nhiêu kẻ. Nay các ngươi dùng mưu cũ rích ấy đừng hòng giết được ta.

Nói xong, từ hai phía sườn núi bọn cướp từ đâu ra đến cả năm chục người. Đỗ Đại tỏ vẻ rụt rè hỏi :

- Các ngươi ai dám xông lên trên kia bắt cướp.

Cả đám lính bước lùi lại một bước, duy chỉ còn một tên lính còi cọc miệng há hốc. Dương Diện dùng sức hẩy hắn lên ngã dụi mặt xuống đất. Dương Diện thét lớn :

- Hèn quân. Hãy xem ta đây.

Gã Quỷ lao lên như tảng đá lăn ngược dốc, gã dùng dao quắm cắt đứt đôi cây thông lớn. Bọn lâu la cướp vẫn tiến lên, tên thủ lĩnh cầm cây nỏ bắn xuống phía dưới sượt qua đầu gã quỷ. Gã giật mình thấy tóc rơi xuống, hét lớn :

- Lũ cướp khốn nạn. Cậy trên cao lại có nỏ bắn. Có giỏi thì xuống đây đấu với ta so cao thấp, mạnh yếu.

Tên thủ lĩnh hò hét đám lâu la chạy xuống phía dưới hòng truy giết. Đỗ Đại cho quân rút lui như khi nãy trốn chay. Tên thủ lĩnh cười lớn, chạy đuổi theo, vừa chạy vừa nói lớn :

- Giờ thì xem các ngươi còn mai phục bằng gì ?

Tên lùn khi nãy gọi thêm một đám lâu la nữa đuổi theo trợ giúp tên thủ lĩnh. Đám lính chạy toán loạn, lựa đường chạy qua đám cỏ khô, lá khô. Bọn cướp đuổi theo khắp ngả ấy chạy đến những chỗ ấy, thấy bọn lính chạy qua được cũng đuổi theo qua đấy. Đám lâu la không biết chạy qua chỗ yếu, ngã thụt xuống những hố đầy ong. Được nửa canh giờ, bọn cướp người chết vì ong đốt, kẻ thoát được lên hố được thì cũng bị quân lính cầm đuốc từ xa ném vào mà chết cháy. Còn lại chừng mười tên lâu la và đám con gái chạy xuống núi toan tìm lối thoát thì bị đám lính chặn giữ lại. Hai tên cầm đầu bị trói dắt xuống chân núi.

Đêm ấy, Chí Liệt cho người tra khảo bọn lâu la bị bắt, không tên nào chịu khai đường vào động cướp. Chí Liệt cho giết bảy tên. Hai tên thủ lĩnh cứng đầu luôn miệng nói :

- Cha mẹ chúng mày. Dám lừa ông mày. Đại ca ta sẽ giết chết hết lũ chúng mày.
Hai tên ấy gào thét đến nửa đêm thì đói lả đi. Gã Quỷ uống rượu rồi đùa giỡn với một đứa con gái mà gã giữ lại, trước mặt hai tên thủ lĩnh. Gã rót rượu vào bát rồi đưa lên miệng đưa cho tên thủ lĩnh người cao lớn. Y nhổ nước bọt vào bát ấy, Gã Quỷ giận lên đập bát vỡ, lấy mảnh vỡ lên rạch vào lưng y. Y không nhúc nhích, mặt căng lên như sắp nổ, đôi hàm nghiến chặt ken két. Gã Quỷ hét lớn vào mặt y:

- Là nhà ngươi muốn vậy. Lính đâu lôi ả người tình của hắn kéo lên đây.

Gã Quỷ định lột sạch quần áo trên người ả xuống thì Chí Liệt dùng gậy gõ vào đầu hắn :

- Ngươi lại định làm điều xằng bậy gì nữa đây ? Còn không mau đi kiếm quân sư về đây. Nửa đêm rồi, chưa thấy đệ ấy về. Không biết là có xảy ra điều gì không nữa.

Có tên lính hớt ha hớt hải chạy từ phía Bắc về, chân tay lẹo khẹo vấp phải gốc đa nổi trên mặt đất. Mặt tím tái tên ấy thở không ra hơi nói :

- Bẩm chủ tướng ! Quân sư chở vàng bạc châu báu qua chân núi phía bắc thì bị toán cướp ấy xông ra cướp. Cả người và ngựa giờ không thấy tăm hơi.

Chí Liệt đấm vào tay mình, tự nói với mình :

- Quả nhiên, Sĩ Giao liệu tính như thần. Giờ chỉ còn…

Đỗ Đại từ phía chùa dưới chân núi chạy về báo:

- Bẩm thiếu chủ. Khi tối, đám lính dò đường đi cùng hai đứa con gái và tên lâu la đã tìm được đường vào động cướp.

- Thế tên lâu la ấy đâu?

- Ta dọa hắn, hắn sợ quá ngã xuống núi mà chết rồi. Còn hai ả kia ta tha cho về làng cũ rồi.

- Vậy ngươi cùng ta đi ngay lối đỉnh núi rồi sang bên động. Mở một lối để tướng sĩ rút thật nhanh. Chúng ta đột nhập động ấy mà bắt sống bọn cướp. Gã Quỷ cầm một trăm lính tức tốc đến chân núi phía bắc cùng Sĩ Giao giải vây đánh hai mặt vào động ấy. Ắt chúng sẽ bại.

Nói rồi, Chí Liệt dẫn theo một trăm lính mở đường lên đỉnh núi từ sườn nam, đến đoạn có nhiều bàn đá thì chia đôi đường. Đỗ Đại dẫn năm mươi lính đi sườn phải, Chí Liệt dẫn năm mươi lính đi sườn trái. Tay cầm đuốc, tay cầm đoản đao, giáo ngắn bọn lính hô hào, chí khí ngút trời.

Bọn cướp trong đêm bị tập kích bất ngờ, không kịp trở tay, nháo nhác tìm vũ khí chống trả lại. Đám lính lại ném đuốc vào những chỗ dễ cháy, gió đông nam theo sườn núi khiến lửa bén nhanh, chẳng mấy chốc đã thiêu rụi toàn bộ lều tranh của bọn cướp. Chí Liệt giương cung bắn hạ cờ xí của toán cướp trên đỉnh núi. Cờ rơi xuống đống lửa mà cháy tiêu tan. Lúc ấy có hai tên mặt dữ như cọp chạy tới chỗ Chí Liệt, một tên hơi thở còn nồng nặc mùi rượu, ria mép lếch thếch như con mèo ăn vụng, mồm méo xệch nói giọng của người phía tây sông Đáy, đều đều mà không phân biệt nổi thanh tiếng:

- Cái lũ kia ! Đang đêm dám xông đến đây đốt phá. Bọn mày không muốn sống nữa chăng?

Chí Liệt nói lớn :

- Ta là An Dương thiện tướng, người Hoan Châu dòng dõi Dương gia. các ngươi còn không mau mau đầu hàng.

Cái tên mặt lông mày rủ xuống quặp lấy hai bên sẹo ở đuôi mắt, mặt lúc nào buồn rười rượi nhìn như chó vùng Tây Lương, hắn nheo mày càng hiện lên nhiều nếp nhăn, giọng nói huênh hoang :

- Cái lũ phản chủ họ Dương. Chúng mày không biết bọn này là thế nào không mà dám đến đây phá phách. Ta đây là Đại Bạch Hổ Mão Tử Hùng.

- Lục Bạch Hổ. Cả cái vùng Lĩnh Nam này chỉ nghe thấy tiếng thôi là đái ra quần rồi. Bọn trẻ con quấy khóc chỉ cần nhắc đến cũng nín thinh. Ta đây đại danh Nhị Hổ Giang Hoài – Cái tên mặt như mèo vụng vỗ ngực, mặt vênh vênh.

Chí Liệt cười lớn:

- Lục Bạch Hổ á? Nghe lục súc thì hợp với bọn bay hơn. Bọn bay thằng thì lùn thấp, mặt con lợn, đứa thì lạch bạch, giọng quang quác như gà vịt. Lại thêm hai cái mặt nhà các ngươi nhìn khuyển hoang, mèo dại. Hổ cọp cái nỗi gì !

Đỗ Đại cùng đám lính ùa theo cười hả hê.

Có tên lâu la đứng cạnh ấy, cái khố đùm còn lộ nguyên đôi mông trắng, chổng lên trời mà khoe :

- Mẹ chúng mày. Có biết đây là gì không?

Đỗ Đại xông lên, đạp thẳng vào mông hắn một cái dúi dụi. Tên thủ lĩnh mặt nhăn lấy dao găm trong tay áo, rạch phanh áo ra mà khoe từng thớ vằn trên người. Hắn gầm gào, đôi tai nhúc nhích. Đôi tay mang đôi Lưỡng long thần trảo sắc lẹm chém tảng đá vỡ làm năm mảnh. Hắn lại gầm gừ, đôi mắt sọc lên như hổ dữ xông thẳng vào Chí Liệt mà chém giết.

Chí Liệt lùi lại, rút gươm ra đấu với hắn. Đánh qua đánh lại hai chục hiệp thì gã xô Chí Liệt ngã ra đất. Tên còn lại dùng cung toan bắn Chí Liệt thì Đỗ Đại xông cầm đoản đao phi trúng gãy đôi cây cung. Tên ria mép lệch xệch ấy lại dùng Hỏa phụng trượng xông tới đánh với Đỗ Đại.

Chí Liệt đứng dậy xuống tấn dùng xà quyền lựa theo thế võ của tên thủ lĩnh kia mà đánh. Đánh được gần trăm hiệp thì Chí Liệt nhặt kiếm lên chém thẳng vào đôi Long thần trảo. Ánh kiếm trong lửa sáng lòa đôi mắt của tên thủ lĩnh kia, hắn đứng thế tựa hổ ngồi đỡ đòn.

Kiểm sắc gẫy đôi khiến Chí Liệt giật mình. Chí Liệt nghĩ trong đầu chẳng thể đấu lại hắn, toan tìm kế mà trói hắn lại. Chí Liệt chạy tới một gian nhà tranh còn chưa bị cháy trốn đi. Hắn gầm gào đuổi theo nhanh như cọp rình mồi, gã đạp thẳng cửa xông tới. Đôi chân găm năm móng sắt, hắn trèo nhanh nhẹn lên kèo nhà toàn tìm Chí Liệt.

Chí Liệt từ trên mái nhà dùng giáo đâm thẳng xuống vai hắn. Hắn né được, dùng chân với vuốt sắt toan đạp trúng bụng Chí Liệt. Thiếu chủ rơi nhanh xuống dưới tránh được đòn hiểm. Chàng dùng đoạn kiểm gãy, toàn bộ sức lực dồn đầu kiếm chặt gẫy cột nhà khiến bờ tường vỡ vụn. Hắn ngã làm cái rầm, phía bên ngoài Đỗ Đại dùng gậy vụt trúng đầu hắn thì tên thứ hai dùng trượng nhảy tới đánh sượt qua vai Đỗ Đại. Hai người cùng chạy ra ngoài, trước sau hợp nhất tạo thế Long Phượng tụ quần. Hai tên cướp hung tợn miệng méo xệch nhìn với ánh mắt dữ dằn lại xông tới muốn giết ngay Chí Liệt và Đỗ Đại. Bốn người đánh qua đánh lại thêm hai trăm hiệp nữa vẫn chưa phân thắng bại.

Lửa cháy mỗi lúc một lớn hơn, Chí Liệt cho quân rút theo đường đã mở từ trước. Đoàn quân rút đến sườn núi phía nam, bọn cướp cũng kịp chạy tới chỗ đấy. Có tiếng hô hào lớn từ chân núi phía Đông chạy sang, nghe ra giọng Gã Quỷ, Đỗ Đại cho quân dạt về hai bên. Toán cướp nghĩ là quân lính trốn chạy, viện quân của mình chạy đến đứng lại cười lớn :

- Lũ quan quân hèn nhát. Phen này bọn mày sẽ biết Lục Bạch Hổ thế nào!

Có tên lâu la hớt hải chạy lại, cầm đuốc ném thẳng vào chân tên Đại Hổ. Hắn lắp bắp hoảng sợ :

- Là… là gã Dương Diện Lão Quỷ Tồn Thăng.

Tên Đại Hổ biết chẳng còn đường lui sai đám lâu la quyết liều chết một phen. Đánh được nửa canh giờ thì toán cướp chết đến hơn nửa. Số còn lại đầu hàng, quân lính bắt giữ trói lại giải về thành Luy Lâu đến tám chín chục tên. Tên Đại Hổ cùng với Nhị Hổ đánh với Chí Liệt cùng Đỗ Đại được năm mươi hiệp thắng thế, toan chạy trốn thì bị Lão Quỷ giật bẫy tóm gọn cả hai. Thừng thít chặt đến mức nghẹt thở khiến bọn chúng không thể nhúc nhích. Sáng ngày sau, Chí Liệt sai lính giải hai tên ấy cùng hai tên bị bắt khi chiều trên núi.

Lại nói về Sĩ Giao, đêm ấy, chàng cùng đoàn tùy tùng khoảng chục người vờ vận chuyển vàng bạc đi đường qua chân núi phía bắc. Lại sai năm mươi lính phục sẵn dưới con kênh gần đó, hễ toán cướp đi từ phía bến Bình Than thì chặn đánh. Năm mươi lính mai phục từ dòng kênh phía bắc khi nào lửa đốt trên núi Lạn Kha thì xông ra đánh giết cướp. Còn lại bốn mươi lính phục dưới làng giữa khe núi chờ lệnh.

Đêm đó, Sĩ Giao bị tên thủ lĩnh sẹo xẻ ngang vai, đám lâu la gọi là Hống Sửu bắt được. Sĩ Giao bị trói vào gốc cây thông lớn chân núi phía Bắc. Một tên lính vờ đau bụng đi tiện thì nghe tiếng hô hào từ trên đỉnh núi giữa đêm. Đám lâu la toán cướp hỗn loạn. Tên lính ấy dùng dao cắt đứt thừng trói Sĩ Giao.
Sĩ Giao ra hiệu cho quân lính đánh từ phía bờ kênh lên chân núi, chém giết một trận. Đến giờ thìn trời sáng, nửa núi phía bắc cháy rụi, bọn cướp, đứa bị cháy, đứa bị lính dùng thương đao chém bốn phần chết ba. Hai tên thủ lĩnh đứng đầu bị Chí Liệt bắt sống.
Bốn tên thủ lĩnh bị bắt trói, đứa nào đứa ấy mặt giữ tợn như cọp, lại có bớp trắng từ cổ lên đến gáy, vằn đen như da hổ nên mới gọi là Bạch Hổ. Sáu tên cả thảy, còn hai tên kẻ đã chạy trốn. Đả bại toán cướp ấy, Dương Chí Liệt được dân vùng ấy tụng là Đại hổ Bình Nam, ngày rằm mồng một lên chùa chân núi phía nam thắp hương thờ sống, dân chúng vùng ấy có bài thơ mà khấn rằng:

”Bình Nam đả hổ cứu người

Uy vang lừng lẫy khắp trời Lĩnh Nam.

Kể rằng dân đói lầm than,

Thương nhân khiếp hãi, quân quan ngậm ngùi.

Làng trên xóm dưới lửa thui

Núi cao sông lớn dập vùi dưới chân

Gái trai lớn bé xa gần

Hễ nghe tiếng ấy mà dần chạy xa

Lúa còn son sắt lụa là

Trâu thời bú mẹ, đàn gà còn thơ

Hôm nào sáng sớm tinh mơ

Một đàn hổ quạ chẳng chừa một ai

Cô nàng yếm áo sờn vai

Anh chàng khố rách soạn bài thơ hay.

Cầm cày, hái lúa mỗi ngày

Chuối kia em bón, bòng này anh chăm.

Ở đâu hổ báo, rắn trăn

Ngày qua phá ruộng, nong tằm cháy khô.

Chuối chưa chín, bòng chưa to

Giặc kia kéo đến xéo cho nát nhừ

Dòng trong nước chảy lững lờ

Tay chèo, tay kéo những giờ trăng lên

Líu lo trên bến dưới thuyền

Cá tôm tanh tách chim khuyên mừng lòng.

Bỗng đâu ngạc quái giữa dòng

Xô người chèo lái, lại hòng cướp ngư.

Than ôi cái phận thủ từ

Sớm chiều quét lá cùng sư kinh thiền

Chúng dân thương xót cùng quyên

Trăm đồng, một nén chút tiền nhang hoa.

Ấy rồi hổ báo lại qua

Phật rơi nước mắt, lệ nhòa đôi vai.

Liệu ai đủ dũng đủ tài,

Đánh tan hổ báo ương tai bớt dần?

Bình Nam chẳng quản tấm thân

Ngày đêm phục kích đỡ dần tiếng than

Đêm kia động cướp hoang tàn.

Quân sư mưu trí, Bình Nam nghệ tài

Tồn Thăng võ dũng giương oai

Lão ngư Đỗ Đại sức ai địch bằng.

Lưỡng hổ cậy dũng hung hăng

Bình Nam khéo bẫy san bằng núi Tiên.

Nay thời giặc cướp đã yên

Thành tâm kính bái dâng lên thánh hiền.”

Diệt xong giặc cướp khét tiếng vùng đông du, dân chúng vùng ấy hả hê lắm. Trẻ con, người già đi lại thấy yên lòng. Những con buôn, thổ hào cũng thở phào vì đường gần dễ đi mà chẳng sợ cướp. Vàng bạc của cải bọn cướp cất giữ Chí Liệt đem chia hết cho người dân vùng ấy. Chùa chiền, đền miếu không kể lớn bé cứ quanh đó năm mươi dặm cũng được tu sửa bằng tiền ấy.



Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.

Chương 3.3 Mầm thạch long

Ngày đẹp cuối tháng tám, Đỗ Đại nhận lệnh về huyện Chu Diên nhậm chức. Sĩ Giao ngồi dưới gốc thị chùa Kiến Sơ nhìn về núi thiêng ấy mà thở dài. Chí Liệt hỏi:

- Thù nhà nợ nước đã trả. Quân sư sao vẫn thở dài?

- Chẳng giấu gì huynh tướng. Từ ngày Đỗ Gia Trang bị thảm sát, tám anh em chúng tôi chia đôi ngả đường. Sĩ Giao tôi, huynh trưởng Đỗ Đại, em trai Sĩ Hoàng cùng tâm phúc Đỗ Dụng ngược dòng Vân Cừ thì bị cướp. Đỗ Đại cùng ta chạy về được Giao Châu, lấy đất Luy Lâu làm ruộng, chài lưới nơi sông Cái, sông Thiên Đức cho đến nay cũng đã quá ba năm. Sĩ Giao may mắn được qua lại La Thành, ra vào trị sở Tống Bình. Lúc nguy nan lại được chủ công cứu giúp. Nay nghĩ về Đỗ Dụng và em trai thiếu may mà thấy buồn thay.

- Chí trai muôn phương vùng vẫy. Sinh ly tử biệt biết mấy thì. Quân sư chớ phiền lòng. Cùng ta lên núi Tiên Du vãn cảnh kiếm vui chăng?

Sĩ Giao cùng Chí Liệt thúc ngựa đến núi ấy, ngắm cây hoa, cây liễu làm vui. Trên đoạn đường về, hai người gặp đám hòa thượng đang cùng kéo mấy xe gỗ nặng trĩu, lại cả đá thạch kỳ quái. Chí Liệt dừng lại hỏi đám ấy :

- Chẳng hay những thứ này các tăng chở đi đâu?

- Chúng tăng đi từ Tiên Du mang về Đại tự hương Phù Đổng. Núi ấy nhiều dị thảo kỳ hoa mọc trên đá, sư phụ kêu chúng tôi tới đó mang về.

Sĩ Giao đi một vòng quanh đám tăng nhìn thấy tảng đá dáng hình như đầu Rồng, lại có hai cây mọc ra như râu Rồng. Thạch diện có những nếp đỏ kỳ quái như văn tự cổ. Sĩ Giao hỏi đám tăng ấy:

- Đá này các tăng lấy ở đâu?

- Bọn tăng tôi lên đỉnh núi Tiên Du lấy xuống. Xưa có toán cướp ở đó dân chúng quanh đó chẳng ai dám lên núi ấy. Nay nhờ ơn Dương tướng quân diệt bọn ấy mà chúng tăng mới lên núi ấy kiếm về.

- Chẳng hay các tăng có thể tặng hai chúng tôi tảng đá này. Ta tặng các tăng một con ngựa đỡ sức kéo.

Đám tăng ấy bàn bạc một hồi, nói với Sĩ Giao :

- Hai vị thông cảm cho chúng bần tăng. Hay là hai vị cùng chúng bần tăng về Đại tự, trụ trì đồng ý thì sẽ tặng cho hai vị.

Hai người đi theo đám tăng ấy đến Đại tự kia, như đoán được trong đầu thì đúng là Đại Đường Nam tự. Sĩ Giao đứng xuống ngựa nhìn lại cảnh chùa một hồi lại hỏi :

- Có phải là Đại Đường Nam tự do vương tử Lý Đạo Cổ dựng chăng?

Có người bước từ hữu viên đại sảnh bước ra, giọng trầm mặc :

- Đại Đường Nam tự chính đây. Vương tử Đạo Cổ nơi xa không hay, quan sứ Tượng cổ chẳng còn thây. Chẳng phải hai người ngày nạp phật của Đại tự đã tới đây.

Chí Liệt giọng nói vang vang :

- Bọn giặc ấy, chữ vương tử nghe mà trướng tai.

Đám hòa thượng bảo nhau chạy vào hậu viên, chỉ còn lại vị cao tăng mặt đẹp như phật kia ở lại cùng hai vị tướng quân. Vị tăng ấy nói :

- Chốn phật môn, không phân biệt kẻ mạnh người yếu. Đức Phật từ bi có đức hiếu sinh mở lòng đón nhận mọi lòng thành.

Chí Liệt tức giận, mặt đỏ phừng phừng, tay nắm chặt dây cương quay ngựa ra phía cửa tự. Chí Liệt quay mặt lại mà hỏi:

- Ta nghe nói nhà ngươi là Đại thiền sư đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, tinh thông kinh phật, ngày ngày giảng giải đạo lý cho chúng dân phật tử. Cớ nào lại mê kỳ hoa dị thảo, sai đám tăng đi lên núi cao mà tìm kiếm thứ ấy.

- Nam mô a di đà phật. Phật tổ chứng niệm. Bần tăng đầu nào có tâm vị kỷ mê muội. Nơi ấy muôn thú chim muông hãi hùng đám giặc cướp, cỏ cây hoa lá chốn ấy cũng vì thế mà sinh ra kỳ dị. Chúng tăng mang chúng về đây chẳng có lòng khác, chỉ mong hướng chúng đến bản thiện như khi chúng được sinh ra, ấy rồi lại trả chúng về với nơi ấy cho muôn thú, chim muông có bạn có bầu.

Chí Liệt nói :

- Ra là như vậy. Ấy thế mà đám tăng đi lấy đá kia nói về hỏi sư ngươi đồng ý mới tặng cho ta đá ấy. Thế cớ làm sao?

- Đám đệ tử ấy là mong hỏi ý Phật. Tâm trong sáng Phật ý nghiêng lòng. Nay thấy Tướng quân khảng khái, tính tình bộc trực lại không mang xà tâm. Ý Phật đã nghiêng, mời hai vị tướng quân mang đá ấy về.

Như lời đã nói, Sĩ Giao tặng cho tự ấy một con ngựa khỏe. Hai người mang đá ấy về La Thành. Dương Thanh lấy làm kỳ lạ hỏi Sĩ Giao:

- Các ngươi mang mấy trăm lính đi bắt giặc cướp. Nghe rằng cũng hao tổn vài phần sức lực sĩ tướng.

Sĩ Giao bẩm lại :

- Giặc dữ trong thành, đồn trú thì dễ đánh. Bọn trộm gà cướp chó thì không đáng để bàn. Bọn cướp này tổ chức bài bản, kỷ luật nghiêm minh lại hung tợn hơn quân tướng nhà Đường gấp đến vài lần, lấy một mà địch được năm sáu, chém giết chẳng chút nương tay. Quân sĩ vừa trải qua chiến đấu ác liệt, bọn ấy lại dựa địa hình, thời tiết mà cản bước quân ta. Cũng vừa xảy ra chuyện hương Phù Đổng nên thành ra mới vậy. Mong chủ tướng minh xét.

Dương Thanh nghe Sĩ Giao phân trần cho là phải lẽ nên không dò xét. Sĩ Giao bàn
tiếp với họ Dương:

- Sĩ Giao thấy rằng. Đám người đến Đại tự hương Phù Đổng kia, chẳng phải bọn
tiểu nhân tầm thường. Chí Liệt thiếu chủ cũng đã nhìn thấy và báo lại cho chủ công. Mong chủ tướng sớm cho tra xét tránh hậu họa.

Dương Thanh cười lớn:

- Quân sư quá lo lắng rồi. Ta đã phái người giả làm chúng đệ tử để dò la tình hình. Chẳng hay viên đá này là như thế nào?

- Bẩm chủ tướng cùng thiếu chủ. Đá này bề ngoài có vẻ thô ráp xấu xí. Nhưng để ý kỹ một chút, dưới lớp ráp thô này là ngọc bích nảy mầm ra cây tạo thành râu rồng. Ấy là điềm lạ thứ nhất. Chủ tướng xem hình dạng nó, phía trên nhô cao như sừng của loài rồng, đôi mắt chính đây hai ụ lồi to, chỉ cần bóc lớp màng đá này ra sẽ là hai con mắt xanh ngọc. “Long Diện” lại có sọc thắng kẻ xuống đến “Long khẩu”, chính là chỗ này, ấy là mũi rồng. Mà rồng là biểu trưng của vương quyền. Chẳng phải chính là điềm báo tốt cho chủ công?

Dương Thanh nhìn lại viên đá ấy một lượt, hỏi Sĩ Giao :

- Có lẽ là Long Thủ, ấy nhưng lại có những nét nguệch ngoạc màu đỏ phía chính diện này có vẻ giống chữ viết của tiền nhân. Theo quân sư thì ta nên để viên đá này nơi nào?

- Phía cổng nam La Thành, đi hướng về hương Phù Đổng chừng hai trăm bước có kênh nước chẳng rõ nguồn từ đâu, có tự bao giờ nước trong vắt chảy vào trong lòng đất quanh năm không thấy cạn. Tiểu nhân nghe dân gian có huyền tích rồng trẫm mình chốn ấy mà tạo thành dòng nước ấy. Nay có đầu rồng chốn này, chọn ngày lành tháng tốt mời nhà sư đến, soạn sửa lễ vật, sai mười tám trai tráng trong thành ra ấy mà dâng lễ làm tế nhập thân cho rồng. Long này ngự ở cổng Nam La Thành vừa hợp với phận của chủ tướng.Ý rằng chủ công là người Nam, tổ tông lại ở phía nam đất ấy. Rồng phía nam ấy chính là ứng vào người đó.

Dương Thanh cười lớn. Hỏi Sĩ Giao :

- Chẳng hay mời sư thầy nơi nào? Ta có đọc chút thiên văn, thiên tượng nhưng vẫn muốn hỏi quân sư chọn ngày thế nào?

- Bẩm chủ công. Nay chủ công nắm Giao Châu, Đường triều xa xôi ngày một ngày hai chưa thể đến ngay, nhưng ắt sẽ đến nên không thể để lâu. Tiểu nhân bấm được ngày mùng tám canh ngọ là ngày hoàng đạo. Nhân dịp ấy mà thử lòng bọn tăng nhân Đại tự hương Phù Đổng.

- Quân sư thật hợp ý ta. Hai ngày nữa, Chí Liệt cùng quân sư soạn sửa lễ vật, chọn lấy lính tráng mà làm lễ tế. Nghe rằng từ Hát môn xuôi dòng Đáy chừng ba chục dặm đường, phía hữu ngạn có đất gọi là Phụng Châu, nơi ấy lại có thợ đục đá giỏi nhất. Sĩ Giao sai người mời người ấy về để tạc đá Long Thủ. Về phần sư thầy, ta cũng định mời đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng để xem lòng dạ bọn chúng thế nào.

Lại nói những ngày Chí Liệt diệt cướp ở núi Lạn Kha, Dương Thanh sai Triệu Hoằng cho người đóng giả kẻ học đạo về chùa Đại Đường ấy mà do thám tình hình để báo cáo lại cho Dương Thanh. Triệu Hoằng bản tính tham lam, yêu vàng bạc châu báu nên mấy tên quan lại ngày trước dưới trướng Lý Tượng Cổ đút lót cho hắn mỗi người mấy lượng vàng để được về chùa ấy nghe ngóng.

Nghe tiếng chùa ấy lớn, gỗ, gạch sơn ngói đều được rát vàng, thếp bạc, lại có vị cao Tăng tu ở đấy, nên đám dân chúng, con buôn khắp Giao Châu này về lễ lạc thật nhiều. Thấy như miếng thơm ngon nên càng có nhiều kẻ tranh nhau xin đi tới đó. Triệu Hoằng nhận lời, phái đi cả thảy bảy người. Được hai ngày, kể từ ngày Chí Liệt dẫn viện quân hai trăm lính đến Tiên Du, ba người bị chùa ấy từ chối không nhận làm phật tử, không cho nghe giảng kinh phật.

Triệu Hoằng bẩm báo lại cho Dương Thanh, Dương Thanh cho gọi ba người ấy đến dò hỏi:

- Các ngươi làm việc gì sai trái nơi cửa chùa mà để chùa ấy không nhận.

Có tên người mập mạp, da trắng bủng beo tiến lên mà bẩm :

- Bẩm chủ công. Chúng tôi tới chùa ấy cả thảy bảy người. Sau khi khai danh báo tên thì được một nhà sư nói giọng Quỳnh Châu dẫn ra một lối sau chùa dặn dò. Nói rằng chùa nhỏ, phật tử đông, xin chúng tôi về, sau này có dịp thì tới báo danh lần nữa.

- Hay bọn ấy tham của đút lót mà các ngươi không cho tiền bọn ấy?

Một tên dáng thư sinh bẩm lại :

- Triệu Đại nhân có dặn dò chúng tiểu nhân nhưng khi ở chùa, bốn người kia được nhận vào chùa thì nói lại với chúng tiểu nhân là không cần phải đút lót cho bọn ấy. Sau khi biết không được vào chùa học kinh, tiểu nhân cũng có gặp riêng vị sư ấy đút lót cho chút tiền nhưng vị ấy không nhận. Lại nói, có nhận tiền cũng không thể giúp được.

Ngày hôm sau, lại có một tên trốn khỏi chùa ấy về báo lại cho Triệu Hoằng. Hoằng bẩm lại với họ Dương. Dương cho gọi kẻ ấy lên. Giọng nói tên này không phải người Tống Bình, mặt mũi thâm tím như vừa mới bị đánh đập, Dương Thanh hỏi hắn :

- Nhà ngươi dò la tin tức gì chăng? Mặt mũi tại sao lại ra như thế?

Hắn lấm lét mặt, giọng run run :

- Bẩm Thiên thanh tướng quân. Bọn chúng nhiều kẻ không ăn chay, uống rượu, lại luyện võ suốt ngày. Đêm qua, tiểu nhân còn nghe được bọn chúng thì thầm to nhỏ thì bị bắt đánh cho thâm tím mặt mũi. Cũng may có vị tiểu hòa thượng cứu giúp nên mới chạy được ra ngoài.

- Nhà ngươi là người ở đâu? Tên họ là gì? Làm việc gì ở Tống Bình.

- Bẩm tướng quân. Tiểu nhân họ Ngô, tên Dụ, thân mẫu sinh tiểu nhân vào ban ngày nên vẫn gọi là Nhật Dụ, hiện đang là đốc mã Giao châu. Được giao quản lý số lượng trâu ngựa vùng Giao Châu này. Tiểu nhân sinh ra tại đất Đường Lâm. Tổ tiên ngày trước người quận Nam Hải, đất Phiên Ngung của Việt Vương thời chiến quốc, đến Ái Châu cầy cấy đến nay cũng được năm đời.

- Ra là thế. Ngươi có sợ chết không?

- Bẩm chủ tướng. Làm người ai chẳng sợ chết. Tiểu nhân cũng có gia đình, trên cha mẹ già, lại chưa lập gia thất, càng không muốn chết.

- Sao lại phụng sự dưới trướng tên ác nhân Tượng Cổ?

- Là phận tôi tớ, tiểu nhân không dám bàn.

- Ta nghe lời người khác nói Triệu Hoằng ăn đút lót của mấy người đến Đại tự hòng kiếm lợi vậy? Ngươi nghĩ làm sao?

- Là chủ tướng xin chủ công chớ vì những lời rèm pha mà nghi kị kẻ dưới.

- Nhà ngươi có hay không đút lót cho Triệu Hoằng. Hắn nói với ta nhà ngươi lòng dạ thật thà. Nhưng hắn lại sợ ngươi là người từng dưới trướng Tượng Cổ nên cũng có phần e dè.

- Nếu là Triệu đại nhân có lòng nhận của đút lót thì kẻ nào hám lợi cũng nhìn thấy điều ấy mà đút lót. Còn phận làm tôi tớ, tiểu nhân chỉ làm theo lệnh trên.

- Thế trên ngươi còn có ai ?

- Bẩm chủ tướng ! Trên tiểu nhân còn có Liễu tá đại nhân Đặng Khả.

Dương Thanh nghĩ một lúc, cười lớn :
- Là tên Liễu tá giữa chợ La Thành, một mình mắng chửi hai thằng cháu của
Tượng Cổ mà tên quan sứ ấy chẳng thể làm gì được? Ngươi làm đốc mã, động cơ gì muốn đến nơi Đại tự ấy.

Tên ấy lúm khúm bẩm lại :

- Là Đặng đại nhân nói với tiểu nhân. Lần này đến ấy, có cơ may thì tiểu nhân sẽ trúng lớn. Ấy thế mà tiểu nhân xin đi.

Dương Thanh mặt nghiêm nghị, nói lớn:

- Ta biết dạ nhà ngươi rồi. Thưởng cho ngươi hai lượng bạc. Cho nhà ngươi lui. Hễ có gặp họ Đặng ấy thì chuyển lời cho hắn như vậy là hòa vốn rồi.

Thấy dáng vẻ cậu ta có vẻ đường hoàng, trả lời những câu hỏi của Dương Thanh đâu ra đấy, đáo để đến kinh ngạc, Thanh lấy làm mến mộ lắm.

Dương Thanh hỏi Triệu Hoằng về cái tên Nhật Dụ này. Hoằng cho biết, ngày hôm trước, Dương Thanh sai Triệu Hoằng đi dò la Đại Đường tự thì Đặng Khả đại nhân có đến giới thiệu cậu ta cho Hoằng. Cậu ta năm nay mới tròn mười lăm mà dáng người vạm vỡ lớn hơn những thiếu niên tuổi ấy, tinh thông tính toán từ khi lên mười, được cha cho theo học ông thầy người Trung Nguyên tại hương Sơn Ổi, huyện Quân Ninh, Ái Châu. Nghe nói ngày trước, đất ấy có ông thầy người Trung Nguyên đến, thấy đất linh ứng mà mở lớp dạy học. Sau này học trò nơi ấy có vị tiến sĩ làm tới Tể phụ Đường triều thời Bố Cái Phùng Hưng.

Dương Thanh trộm nghĩ "Tuổi trẻ mà đã có tài, sau này ắt có tương lai sáng lạn. Hy vọng trời giúp ta, cho ta nhiều hơn những nhân tài như vậy."



Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.

Chương 3.4 Đuổi cáo mời thầy tu

Chợt nghĩ, Dương Thanh nhận tin quân báo về:

- Bẩm chủ tướng. Ngoài trấn Hải Môn báo về, quân sĩ nhà Đường đã lui về Ung Châu, một phần lớn lực lượng đã rút hẳn về Quế Châu.

Dương Thanh cười sảng khoái, giọng đầy hào khí :

- Đúng là đám thối nát, rụt cổ rùa. Còn việc gì nữa hay không?

- Bẩm chủ tướng. Phía Đường triều cho sứ ban chiếu sắc phong chủ tướng làm thứ sử Quỳnh Châu. Hiện viên sứ Lỗ Hạo đang bị giữ lại ở trấn Hải Môn.

- Các ngươi mau dẫn quan sứ ấy tới đây. Các ngươi không được thất lễ. Trên đường tới đây, các ngươi đối xử tử tế với y chứ?

- Bấm chủ tướng. Thiếu chủ Chí Trinh đã có dặn dò lũ tiểu nhân. Hiện viên sứ ấy đang cùng thiếu chủ ở Hải Môn trấn.

Nửa ngày sau, Chí Trinh dẫn y về tới phủ. Dương Thanh sai lính giăng đầy giấy vàng mã khắp từ bờ bắc sông Thiên Đức qua cổng nam La Thành vào đến tận phủ. Thêm đó là các nhà trong thành đều treo cờ rủ trước cửa nhà. Viên sứ ấy thấy điều ấy làm lạ, liền hỏi Chí Trinh :

- Dương tướng quân này. Sao thành phủ lại giắc đầy vàng mã như vậy?

- Đại nhân không biết đấy thôi. Những ngày qua tướng phụ mắc bệnh lạ, người lúc nào cũng rầu não mà suy nhược đi nhiều. Người lại sợ trong thành có nhiều linh hồn chưa siêu thoát nên sai bọn tiểu nhân làm vậy để lòng thấy thanh thản với những người đã chết, cũng là đuổi trừ ma tà trong dân. Người hiện giờ đang ốm o nằm một chỗ, e là chẳng thể ra tiếp đón được ngài từ phía xa.

Viên sứ ấy cùng Chí Trinh vào trong phủ thấy Dương Thanh nằm trên giường, miệng há hốc, đôi mắt đờ đẫn, môi thâm sì. Y lại gần định hỏi thì Chí Trinh gàn lại:

- Ấy Lỗ Đại nhân. Người đường xa tới đây. Hãy cứ nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Bệnh của tướng phụ là kiểu phong hàn xứ nam, người từ xa tới rất dễ mà bị truyền sang.

Lỗ Hạo nghe vậy liền lui ra. Kéo Chí Trinh ra một góc mà nói :

- Bệnh này chờ trị xong có lâu hay chăng?

- Sớm nhanh chóng khỏi thì cũng phải ba ngày, mà lâu cũng đến cả tháng. Các lang sĩ nói với tiểu nhân tướng phụ có khỏi cũng phải hai tuần nữa mới dậy được. Tướng phụ lại chẳng chịu ăn uống gì nên là…

Chí Trinh thở dài. Lỗ Hạo lắc đầu, lại gọi tên tùy tùng vào mà bàn. Bàn xong, Lỗ Hạo lại hỏi:

- Dương Thanh như vậy thì ai cầm đất Giao Châu này?

- Chẳng giấu gì. Tướng phụ lại giao hết việc chính sự cho Đỗ quân sư. Còn việc Binh tướng là tiểu đệ của tiểu nhân Chí Liệt.

Lỗ Hạo ghé tai thì thầm với Chí Trinh:

- Dương Thanh thế kia thì chẳng biết có thể qua khỏi hay không. Hai người kia ta nghe nói cũng chỉ là hạng tầm thường, chẳng thể sánh được với Chí Trinh huynh đệ. Nay bản sắc phong này trong tay ta. Đêm nay canh ba…

Bỗng có tiếng ho sặc sụa từ phía giường trong. Chí Trinh quay vào nâng gối cho
Dương Thanh. Lỗ Hạo chạy tới nói lớn:

- Này Dương Thanh kia. Triều đình có chiếu ban tước cho ngươi.

Dương Thanh hắng lên một hồi rồi thều thào trong vòng tay của Chí Trinh:

- Thật là thất lễ với Lỗ Đại nhân. Xin Đại nhân tha tội cho. Thanh tôi nào có tài cán gì mà triều đình sắc phong.

Thấy Dương Thanh yếu ớt, nói chẳng ra hơi. Lỗ Hạo chẳng vui vẻ gì nhưng vẫn miễn cho Dương Thanh, không phải bái lạy nhận chiếu. Dương Chí Liệt quỳ sát giường, mặt hướng về Dương Thanh, sau đấy nhận chiếu chỉ thay cha. Họ Lỗ ra ngoài phủ, vỗ vào cánh cửa ba cái rồi nói lớn :

- Ta về phòng trọ.

Đêm ấy, canh ba gà gáy, Chí Trinh cùng hai tên tùy tùng chạy tới quán trọ. Thấy đèn phòng trọ Lỗ Hạo còn sáng, cửa lại để hé, Chí Trinh gõ cửa ba tiếng. Lỗ Hào khệnh khạng chạy ra mở cửa, Chí Trinh nhanh chóng lẻn vào, ra dấu cho hai tên tùy tùng đóng cửa đứng ngoài quan sát. Lỗ Hạo hỏi Trinh:

- Dương Thanh nhận chỉ ý thế nào?

Chí Trinh lúi húi thò tay vào trong áo lấy ra ba thỏi vàng lúng túng nhét vào tay áo họ Lỗ. Họ Lỗ run bần bật nhận chúng rồi làm rơi một thỏi xuống dưới sàn gây tiếng động lớn. Tên tiểu nhị chạy tới thì bị hai tay lính giữ lại. Hắn nhanh nhảu hỏi vọng vào :

- Chẳng hay Đại nhân có chuyện gì không ạ?

- Không có gì đâu. Chỉ là ta đọc sách khuya mà ngủ quên mất, đánh rơi thẻ tre xuống đất. Có hai người đứng gác rồi, nhà ngươi cứ yên tâm mà lui xuống.

Tên tiểu nhị lui xuống đi ngủ. Không gian yên ắng trở lại, Chí Trinh thủ thỉ với viên sứ:

- Tướng phụ nói với tiểu nhân người yếu lắm, e là không qua khỏi. Chẳng thể đi Quỳnh Châu nhậm chức được. Đây có chút lòng thành của ta, mong Đại nhân giúp đỡ ta về bẩm báo với triều đình.

Lỗ Hạo nói khẽ khẽ :

- Được được ta hiểu.

Ngày sau, giờ thìn hoàng đạo, Lỗ Hạo được Chí Trinh tiễn đến tận trấn Hải Môn. Đi gần hết đất Lục Châu, đám quân lính An Nam cũng dần xa, tên tùy tùng mới nói lại với Lỗ Hạo:

- Đại nhân ở xa chắc chưa hay. Tên Dương Thanh biến hóa thần thông. Xưa Tượng Cổ Đại nhân cũng bị hắn vờ ốm, dọa cho kinh hãi.

- Nhà ngươi sao không nói từ trước với ta.

- Đại nhân quả nhiên từ xa tới không biết. Ban đầu tiểu nhân cũng nghĩ lời tiểu tử Chí Trinh kia là đúng. Những xét lại mới thấy nhiều điều không đúng. Ngay bản thân bọn lính tráng, quan lại cũng không hề có ý qua lại phủ thăm hỏi. Lại nghe rằng, sau Dương Thanh giết chết Tượng Cổ, treo đầu thị chúng, hắn còn minh mẫn chỉ đạo Đỗ Sĩ Giao đi dẹp giặc cướp. Ngày qua người trong thành còn kháo nhau rằng mồng tám tới bọn chúng còn lập lễ tế nhập Long, mà chính Dương Thanh là người chủ tế.

Lỗ Hạo khen lập luận của tên ấy mà nghĩ thầm trong bụng:

- Triều đình chẳng qua cũng chỉ là vờ cho hắn đến Quỳnh châu mà trừ khử hắn. Chuyện đã thế, nay về báo với triều đình là Dương Thanh không chịu nhận chiếu, kháng chỉ lại có ý làm phản, triều đình sẽ chẳng trách tội ta mà sẽ mang quân đến mà diệt hắn.

Đến cửa ngõ Ung Châu, có toán người phi ngựa chặn đầu xe. Lỗ Hạo mở cửa xe nhìn ra là đám trọc đầu dữ tợn, tay chắp trước ngực. Y hỏi bọn chúng:

- Lũ trộm cướp các ngươi. Sao dám chặn đường ta.

Có một tên cưỡi ngựa lại gần khiến Lỗ Hạo thất kinh :

- Ta là sứ giả triều đình. Các ngươi chớ có làm bừa.

Tên ấy xuống ngựa, tay chắp phía trước quỳ xuống, giọng đầy giận dữ :

- Mong đại nhân minh xét. Trả lại công lý cho chúng tiểu nhân.

Cả đám ấy, dăm người đều phục xuống mà vái lạy, đồng thanh. Lỗ Hạo lại hỏi :

- Các ngươi là ai? Có điều gì khuất tất. Ta thì giúp được gì cho các người.

- Chúng tiểu nhân là người của Đạo Cổ vương tử. Trước cả nhà bị giết bởi tên họ Dương kia, căm phẫn lắm thay. Nay được Vương tử tin tưởng tập hợp quân lính ở Giao Châu. Mong đại nhân về báo với triều đình, chúng tiểu nhân đã tập hợp được số lượng lớn quân ngũ để chống lại họ Dương ấy. Nay mong triều đình mang đại binh tới, trong ngoài ứng hợp giết chết họ Dương. Trước là lấy lại uy danh triều đình, sau là rửa hận cho vương tử Đạo Cổ.

Lỗ Hạo về bẩm báo lại với triều đình, vua Đường bấy giờ là Hiến Tông Lý Thuần ra chỉ lập Quế Trọng Vũ làm Đô hộ sứ An Nam. Lại điều binh từ các châu Quảng, Quế, Ung, Ích đến các cửa ngõ vào Giao Châu, số quân lên đến hơn mười vạn binh.

Trong thời gian viên sứ hộ Lỗ trở về kinh thành bẩm báo triều đình cũng chừng hơn một tháng, Dương Thanh ra lệnh tất cả các quân doanh khắp Giao Châu luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Chí Trinh thừa lệnh Dương Thanh sai đám quan lại từ Phúc Lộc đến vùng biên thùy Thang Châu, Chi Châu đóng chặt cửa thành, không giao du với đám buôn bán từ bên ngoài, đóng chặt các quan ải ngăn chặn mọi sự di tản có dấu hiệu gây nguy hại cho tình hình Giao Châu.

Tháng tám, ngày canh ngọ, như đã định từ trước, Dương Thanh cho lập đàn tế nhập Long ở phía nam cổng La Thành. Nghe trong lễ có đại thiền sư cầu tế nên dân chúng xung quanh Tống Bình đến tham gia rất đông. Đám quan lại, thổ hào địa phương có dịp để tỏ lòng với chủ tướng mới. Dương Thanh cho lệnh, hễ có quan lại nào mang vàng bạc của cải trên năm lượng bạc thì xung hết tiền ấy vào ngân khố, chia cho đám dân Giao Châu nên đám quan lại, thổ hào nhiều kẻ cho là Dương Thanh không chuộng kẻ sĩ, trở mặt không đến tham dự nữa.

Chính ngọ ngày ấy, mười tám lính tráng khỏe mạnh lên đàn tế mặc áo đỏ, vàng chia làm hai cánh từ đông sang tây dọc theo hai bờ dòng kênh về đến chiếc đài đá ở chính giữa đầu con kênh. Hai bên đài là vị sư thầy mặc áo cà sa vàng, đi vòng vòng lẩm nhẩm những lời khấn tiếng Phạn. Chốc chốc lại thấy hai vị ấy tung vạt cà sa phát tiền lễ rơi xuống xung quanh. Đám dân lại xúm vào tranh nhau vồ lấy được tiền lễ ấy.

Được nửa canh giờ, đám lính tập trung dâng đá lên nơi gọi là "Long Lãnh" để nhập Long Thủ. Bỗng có một cơn gió nổi lên, mây đen che kín cả bầu trời. Đám quan lại, dân chúng lấy làm thất kinh chạy toán loạn. Vị tăng kia đứng trên bục giọng rung như loa truyền âm :

- Gió mưa vẫn vũ, thiên long độ thế. Bản mệnh tại giá. Nhập hồn.
Nói rồi, tảng đá ấy nhẹ bỗng, một tên lính dâng lên đài, "Long Thủ" vừa vặn với "Long Lãnh". Tên lĩnh ngã ngửa ra sau., tay hắn còn đang cầm chiếc khăn phủ Long Thủ. Long Diện hiện ra, đôi mắt chói lóa như ánh dương, nét mặt vừa thanh tú lại uy nghiêm toát lên khí chất để vương. Đám quan lại, dân chúng trông thấy quay lại vội dập đầu xuống mà quỳ lạy.

Nhìn từ phía xa, Dương Thanh nhận thấy rõ mình rồng uốn lượn dưới lòng đất, đầu rồng nhô lên khỏi mặt đất. Dương Thanh chạy tới gần, tay chạm vào Long Thủ, từng nét chạm trổ tinh tế, gương mặt thần long hiện lên càng thêm uy nghi, chân thực hơn. Sĩ Giao sai người mang cho Dương Thanh cầm lấy nghiên mực đỏ và bút lông để họ Dương điểm những vảy đỏ và miệng rồng. Dương Thanh đặt nghiên ấy lên đài chênh vênh, có một làn gió nhẹ thổi khiến mực đỏ chảy xuống trán rồng, chảy theo những vân chạm trổ. Có một chữ Vương (王) hiện lên chính giữa Long Diện. Đỗ Đại chạy vội lên đài nhìn thấy nói nhỏ vào tai Dương Thanh rồi
quay ra giọng uy vang như sấm rền:

- Trời xanh ứng báo! Người làm chủ đất này ấy là bậc để vương. Không ai khác nữa chính là Thiên thanh Dương tướng đây.

Ba quân đứng dưới, bọn quan lại cùng đám dân nghe vậy mà nhí nháu bàn tán, nhiều kẻ không ưa lời đấy ra về. Dương Thanh giọng như chuông đồng:

- Ta là quan triều đình, ăn lộc triều đình nào có lòng khác. Thấy đám vô lại, cậy quyền, cậy thế hiếp kẻ yếu mà thấy giận thay nên mới giết lũ ấy. Nay làm lễ này trước là cảm tạ trời đất, sau là nghĩ đến muôn dân Giao Chỉ này mà nhìn hướng Đông bái vọng Long Vương cho dân chúng được mưa thuận gió hòa.

Đàn lễ được tổ chức đến đầu giờ mùi thì xong. Bọn dân chúng người hoan hỉ, kẻ u rầu bước đi. Dương Thanh cho gọi Sĩ Giao vào hỏi:

- Lòng dân chưa mong ta xưng vương. Quân sư nghĩ thế nào?

- Bẩm chủ tướng. Dân ta bấy lâu vẫn coi Triều đình Trường An là thiên tử. Lại thêm bấy nhiêu năm bị người Hoa Hạ dựng kế đồng hóa người Nam. Chủ tướng giết chết họ Lý, dân chúng kẻ mừng, kẻ lo. Ấy nên chuyện xưng vương lúc này thật chưa nên. Trong dân gian lại lắm nhiễu điều cho chủ công vì danh mà làm ra điều như vậy thì dân chúng lại càng lánh xa. Gương cũ anh em họ Viên thời Tam Quốc, chủ công hãy suy xét cho kỹ. Lại thêm triều đình Trường An còn đang thịnh, bọn quan lại vẫn còn một lòng trông về ấy. Chi bằng ta hãy xây dựng quân đổi vững chắc, người dân hướng về chủ công. Chủ công hùng cứ một phương, trong lúc thiên hạ có loạn thì nhắc lại chuyện ấy cũng chưa muộn. Nay vì muôn dân Giao Chỉ, mong chủ tướng soi xét.

- Sĩ Giao nói quả thật là hợp ý ta. Khi trưa nay trên đàn lễ, Đỗ Đại nói chuyện ấy ta e nhiều kẻ không vừa lòng. Nay ta cho ban bố trong toàn đất Giao chỉ bảy mươi điều dân nên làm, chín mươi điều phạt tội. Lại sai cho đám thổ hào phát ruộng đất cho dân để cấy trồng nuôi binh thêm thời gian nữa, để khi đủ mạnh rồi thì sẽ chẳng có kẻ dám động đến.

Sĩ Giao nghe vậy cũng thấy mừng. Hai người bàn thêm chuyện quân một lúc lâu. Trời ngả sẫm màu, Gã Quỷ xong thẳng vào phủ, xô ngã đám lính và lũ gia nhân cản hắn chạy vào thưa:

- Quân sư huynh!

Sĩ Giao ra hiệu cho Gã Quỷ chào Dương Thanh. Gã Quỷ cười hề hề :

- Cúi chào Dương tướng chủ.

Dương Thanh nghiêm nghị hỏi :

- Nhà ngươi có chuyện gì tới đây mà lại vô phép tắc như vậy?

- Bẩm tướng chủ! Là khi nãy ở ngoài đài tế, ngài có làm nghiêng nghiên mực rơi xuống mặt rồng. Bây giờ mặt ấy hiện lên nhiều vân màu đỏ. Bọn lính ngoài ấy nói là có chữ ở trên ấy.

Dương Thanh nhăn nhó nói lớn:

- Đó là chữ Vương. Đỗ Đại khi nãy chẳng nói trước toàn thể mọi người đấy thôi. Nhà ngươi hết chuyện tìm đến đây để gặp quân sư hay sao?

- Nào có chuyện ấy.

Sĩ Giao hẹm giọng. Gã Quỷ nghe vậy, thu mình, hạ giọng:

- Dạ. Bẩm tướng chủ. Là vị sư ấy từ lúc bái xong không chịu đi. Lại ngồi đó niệm chú điều gì đó cùng đám đệ tử. Đám dân thấy thế cũng lán lại. Có làn gió lạnh thổi từ hướng đông bắc khiến tiểu nhân gai cả người. Quay lại thì thấy bọn tăng ấy chỉ trò vào đầu rồng bằng đá ấy. Tiểu nhân hỏi thì một lão nông chỉ về phía đầu rồng nói là ở trên mặt ấy có bài thơ bằng văn tự cổ.

Dương Thanh liền thúc ngựa ra cửa nam thành, thấy đám tăng vẫn ngồi niệm ở chỗ ấy. Dương Thanh chạy ngựa lại gần hỏi đám tăng ấy:

- Các ngươi sao còn chưa đi?

- Sấm rằng thiên mệnh khó cưỡng. Bần tăng ngồi đây để phó lại lời sấm ấy.

- Khó cưỡng làm sao? Ý của nhà ngươi là điều gì?

- Bần tăng xuất gia chỉ mong điều an lành đến với sinh linh. Vì thế ngồi đây khấn trời, cầu phật cho sinh linh điều ấy.

- Ta nghe các ngươi ngồi đây đã hơn hai canh giờ. Có cần phải như vậy hay chăng?

- Niệm kinh phật đâu tính thời giờ. Nếu như đại nhân không mong chúng tăng ngồi đây thì chúng tăng xin nghe theo mà xin lui.

Sĩ Giao nói với Dương Thanh:

- Bọn tăng này niệm kinh phật chỗ đấy cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ta. Có chăng đây là cơ hội tốt bọn ấy muốn khoe khoang với đám dân. Hãy cứ kệ chúng vậy.

Dương Thanh lại hỏi đám tăng ấy :

- Trên đầu rồng viết chữ gì nhà ngươi có biết chăng?

- Bẩm tướng quân. Bần tăng xưa học chữ, đọc kinh chưa từng biết qua chữ này. Nhưng bần tăng biết có người biết chữ đó.

- Người đó thế nào? Hiện ở đâu?

- Cạnh Đại tự có ngôi chùa nhỏ. Sư ở đấy chính là người biết chữ này.

Dương Thanh sai Sĩ Giao đến Phù Đổng tìm ngôi chùa đó tìm vị tăng ấy. Dương Thanh cũng cho gọi tay thợ đục đá đến dò hỏi:

- Nhà ngươi chạm đá ra đầu rồng kia, chắc biết chữ trên ấy chứ?

- Bẩm tướng quân. Khi tiểu nhân đến chạm đầu rồng đã thấy những vân lạ trên đó. Dùng búa đẽo đi không được. Khi tiểu nhân khắc đến mắt rồng thì đá tự vỡ ra tạo thành hình mặt rồng như vậy. Những chữ trên đó, tiểu nhân không được biết.

- Thế nhà ngươi đọc được chữ này chứ?

Dương Thanh ném một mảnh giấy trước mặt thợ đá. Hắn nhặt lên nhìn một lượt, nheo mày, đáp lại lời Dương Thanh :

- Tiểu nhân không biết loại chữ này.

- Nói láo. Nhà ngươi đục đá, khắc ra những chữ ấy lại nói là không biết.

Dương Thanh cho là hắn nói dối, sai lính tạm giam hắn vào ngục. Trời đá tối sầm, đám tăng nhân phía nam cùng mấy người đi từ trong thành ra cũng đã về Đại tự. Chưa thấy Sĩ Giao về, Dương Thanh lòng nóng như lửa đốt, lại thúc ngựa đến Phù Đổng mà tìm Sĩ Giao cùng vị tăng.

Trời tối tĩnh lặng, không gian thanh tịnh nơi cửa chùa khiến Dương Thanh như bớt đi cái mệt mỏi. Thanh tự nhiên cảm thấy thanh thản đến lạ. Dương Thanh trói ngựa chỗ gốc thị, chạy vào trong chùa tìm người. Thấy Sĩ Giao đang thiền cùng hai vị tăng nhân ăn mặc đơn sơ. Thanh hỏi:

- Ta sai quân sư đi tìm vị tăng ấy. Sĩ Giao đã thấy người hay chưa mà còn ngồi đây thiền.

Không thấy Sĩ Giao nhúc nhích, Dương Thanh quát lớn :

- Đỗ quân sư. Nghe thấy ta hỏi gì không?

Sĩ Giao giật mình tỉnh lại như vừa trong cơn mê. Sĩ Giao nhận ra sự có mặt Dương Thanh ấp úng mà thưa :

- Bẩm chủ tướng. Tại hạ tới đây chẳng thấy người, dưới không gian yên ắng của cảnh chùa thành tâm nhắm mắt lại mà chẳng biết mình đã lạc vào cõi mơ từ bao giờ. Mong chủ tướng tha tội.

- Người nào trong hai người này biết chữ của người xưa?

- Dạ bẩm. Đây chính là vị thiền sư họ Trịnh mà tại hạ đã từng nói qua với ngài. Còn đây là hòa thượng Lập Đức, chủ trì Kiến Sơ tự. Chính Lập Đức sư phụ đây là người đọc được chữ ấy.

- Nghe danh hai vị từ đã lâu. Nay có cơ hội diện kiến. Có lời mời hai sư phụ về phủ để luận văn tự, sau đấy là mong được thỉnh giáo về phật pháp.



Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ ba:

Núi Tiên Du, Đại hổ giương nanh vuốt.

Phủ Tống Bình, Đại thiền sư cứu người.

Chương 3.5 Độ thế cứu Bình nam

Dương Thanh ngỏ lời mời hai vị tăng sư tới phủ cùng luận giải bài thơ trên đầu Thạch Long. Hai vị tăng ấy đứng dậy cúi chào Dương Thanh, Lập Đức thay lời sư phụ mà thưa :

- Nghe tiếng Dương tướng quân từ đã lâu, nay được tướng quân đích thân tới mời. Quả là vinh hạnh cho bọn tiểu tăng. Chúng bần tăng xin cùng ngài tới phủ để cùng luận giải.

- Sao vị tăng ấy không nói gì?

- Dạ bẩm. Sư phụ trước giờ tính tình hòa nhã, dung dị hết mức, lại không hay bàn việc. Mong tướng quân thông cảm. Xin tướng quân dẫn đường về phủ.

Cả bốn người cùng lên xe ngựa về Tống Bình trong đêm ấy. Dương Thanh háo hức hỏi Lập Đức những chữ ấy viết gì. Lập Đức lớn tiếng đọc những vần thơ, giọng đầy suy tư:

"Chốn trần gian đỏ lửa

Cõi chết chảy thành dòng

Một dạ cùng cam khổ

Kẻ quân tử khác lòng."

Buông lời xong, Ngôn Thông nói Lập Đức xin ra về. Dương Thanh lên tiếng có ý mời hai vị tăng nhân ấy ở lại. Ngôn Thông từ chối xin về kẻo trời khuya sương rơi. Dương Thanh tiễn hai người ấy đến cửa phủ thì Đặng Khả liễu tá gọi Dương Thanh trở lại mà bẩm:

- Bẩm chủ tướng. Luận viết bài thơ này ra lên giấy. Mong tướng quân xem qua.

“Dương gian hỏa ánh hồng

Tử ngục thủy thành giang.

Nhất chí đồng cam khổ

Quảng nhân chính dị sàng.”

Ba chữ Quảng, nhân, chính, ghép lại chỉ thay đổi nét này thành chữ Định. Tại hạ thấy có điều gì đó ám chỉ ở đây.

Sĩ Giao cũng nhẩm được bài thơ ấy vừa ứng với bài thơ khi trước Sĩ Giao có được tại núi Lạn Kha. Sĩ Giao đứng một lúc không nói lên lời gì. Dương Thanh mặt giận dữ, ném mảnh giấy ấy cho Sĩ Giao:

- Thế này là ý gì? Kẻ nào to gan dám ám chỉ ta sẽ chết?

Sĩ Giao nghĩ một hồi, bất giác trả lời :

- Dạ bẩm. Điều này quả nhiên trùng hợp.

Dương Thanh nóng giận, hất tung chiếc bàn nghị. Lại hỏi Sĩ Giao:

- Nhà ngươi còn đứng đấy làm gì nữa! Mau đi dò xét, đứa nào dám cả gan viết lời ấy tới đây. Nhà người nói trùng hợp điều gì? Sĩ Giao!

Đặng Khả lúng túng, áo quần chưa gọn chạy đi gọi đám lính đuổi theo hai vị hòa thượng, cùng giải tên thợ đá đến. Sĩ Giao lấy lại bình tâm mà đáp Dương Thanh:

- Ngày trước, đi diệt cướp núi Lạn Kha, tiểu nhân nằm mộng có đám con gái gần núi ấy nhét vào tay tại hạ mảnh vải đề bài thơ này. Tỉnh dậy thì thấy Chí Liệt thiếu chủ đang đánh lộn với Dương Diện Lão quỷ. Hai người tranh cãi về mảnh vải kia.

- Mau gọi gã điên ấy tới đây ngay.

Dương Thanh đùng đùng nổi cơn giận tra hỏi hai vị tăng và người thợ đá. Hai bên quả quyết cho rằng họ không hề dính líu tới việc này. Dương Thanh không kìm được cảm xúc liền cho giải ba người ấy vào lao tra tấn ép cung. Hai người tăng nhân không hề nói thêm điều gì từ khi bị giải vào ngục mặc cho vị thợ đá kia kêu gào thảm thiết trước những cung hình tra tấn. Mệt lả người đi, đám cai ngục mới lôi ba người ấy về phòng giam cho hồi sức để chờ thẩm vấn tiếp.

Hai vị tăng nhân lại ngồi thiền trong lúc tay thợ đá kia lao vào vồ những miếng ăn mà bọn cai ngục ném vào cho. Tay thợ đá kia hỏi đau đớn, miệng run run, mái tóc xõa quá vai bù xù, móm mém nhai những miếng cơm nguội vừa nhặt từ đất lên. Nước mắt giàn giụa hỏi hai vị tăng :

- Hai cao tăng là phật chốn nào? Tra tấn cực hình như vậy mà vẫn ngồi đấy thiền?
Ngôn Thông cất lời đáp :

- Phật tại tâm, tâm sáng phật rọi. Những thứ ấy chỉ là bề ngoài, sao cản được cái tâm sáng trong.

Tên ấy nghe chưa giác ngộ hết đã nằm lăn ra mệt nhoài. Lập Đức lời lẽ chân tình hỏi sư phụ Vô Ngôn Thông:

- Sư phụ thấy người này có phải là người có tội?

- Cái tâm không tối tự mà thấy mệt theo bản năng. Kẻ tâm gian trá sẽ lắng lo sợ hãi, chẳng thể ngủ yên. Con tự quan sát người ấy mà phán xét.

Lập Đức nghe lời thầy cùng thiền đến lúc nửa đêm. Có tiếng mở khóa, Lập Đức tỉnh giấc nhưng chẳng mở mắt ra, lại nghe thấy người bước tới gần. Người ấy nghe giọng khá quen khiến vị sư phụ mở mắt ra. Nhận ra Sĩ Giao, Lập Đức hỏi:

- Chúng tăng nghe lời ngài tới đây, nay lại bị trách phạt nơi ngục tối này. Chúng tăng tôi ngày ngồi thiền chốn chùa nhỏ, không màng những chuyện như vậy. Ngài tới đây khuyên nhủ chúng tăng thì cũng không có gì để khai với ngài.

Sĩ Giao từ tốn trả lời:

- Chủ tướng chỉ là cả giận mà như vậy. Ta sẽ dùng lời mà khuyên giải ngài ấy. Chỉ là ta có đôi điều chưa rõ tỏ. Nghe rằng, ngày trước ở núi Tiên Du, Lập Đức đọc kinh chẳng hay ai dạy cho sư chữ ấy? Có nhiều người biết được chữ ấy chăng?

- Chẳng giấu gì ngài. Ngày bé ta ở núi Lạn Kha, có một vị thầy họ Phạm về làng dạy học, có dạy cho ta chữ ấy. Nhưng thầy chỉ nhận ba người để truyền thọ. Ta mồ côi từ nhỏ, tính lại ham đọc nên thầy quý nhận dạy. Một người tài đối đáp giỏi võ nghệ thầy cũng nhận làm đệ tử. Một người khéo tay, thông minh nhanh trí, quyết đoán cũng là con của vị hào trưởng hương ấy. Dạy bọn ta được hơn một năm thì thầy bị bắt giết. Bởi vì một lẽ thầy ta dạy chữ của tiền nhân - chữ cổ của người Nam ta, là thứ mà triều đình cấm lưu hành. Những người ai dạy, học chữ ấy đều bị bắt bớ. Đám quan lại đem đốt hết sách vở viết bằng chữ ấy đi nên giờ chẳng còn ai biết.

- Vậy hai người kia sư có biết giờ họ đang ở đâu không?

- Khi thầy bị bắt, ta cùng với hai người kia theo cứu thầy. Sức nhỏ, lực mọn chẳng cứu được thầy lại bị bắt giam cùng với thầy. Một người bị chết trong ngục do không chịu nổi đòn roi. Ta được gửi về làng quản giáo ba năm. Còn một người sau khi vào nhà lao, ta lấy hết tiền của ta đút lót cho bọn quản ngục thả người ấy ra một cách lặng lẽ bởi ta thương nhà y chỉ có mình y là con trai, cha hắn lại làm hương trưởng sợ làm ảnh hưởng đến cha hắn.

- Thế giờ người ấy làm gì, ở đâu?

- Hơn mười năm trước, triều đình có lệnh xung quân. Khi ấy ta đã nương nhờ cửa phật, người ấy cùng vợ con chạy trốn đến vùng man di phía tây bắc, dọc theo Đà Giang. Cha bị cách chức, bị quan quân đày đến Phúc Lộc. Bọn Lâm Ấp khi ấy đánh nhau to với quân triều đình ở Hoan Châu. Ông ấy bị đạn lạc của quân triều đình bắn trúng mà chết. Sau đấy, người ấy hận quân triều đình mà hẹn với dân Hoàng Động nghe lời Nam Chiếu mang quân chiếm đóng Phong Châu. Khi Dương tướng quân nhận lệnh làm Nha môn tướng lại đánh lui bọn Man Hoàng. Người ấy trốn biệt tăm, nghe đâu ra nhập toán cướp trên núi quê cũ.

- Ra là vậy. Không biết người ấy chữ nghĩa ra sao? Có tài nghệ gì nổi bật chăng?

- Ngày trẻ cùng làng với y, tiểu tăng thấy y cái gì cũng khéo, lại có tính quyết đoán. Tuy chỉ có điều là suy nghĩ không được chín chắn mới dẫn đến như vậy.

- Hai vị tăng ăn chút đồ chay ta mới cho người làm. Chuyện ta đã rõ. Chỉ mai mốt là hai vị sẽ được thả. Cảm phiền hai vị cao tăng.

Vô Ngôn Thông ngồi nghe hết câu chuyện chẳng hề nói điều gì. Lúc Sĩ Giao bước khỏi nhà lao, vị cao tăng ấy mới ngỏ lời răn:

- Kẻ tu hành hiếu sinh làm đầu. Những vương bụi trần còn chưa gột sao tu thành chính quả.

- Lập Đức con xưa có làm việc tốt cứu người nhưng người ấy lại trở thành người có tội với chúng sinh. Kể ra con đây cũng là kẻ có tội. Con nói ra việc ấy cũng chỉ mong vị tướng quân ấy không làm liên lụy người khác nữa cũng là rửa cái tội ngày xưa vậy.

Sáng ngày sau, Sĩ Giao cho gọi hai vị tăng ấy lên kể lại chuyện ấy cho Dương Thanh. Dương Thanh chưa thông đầu óc, giọng cáu gắt hỏi:

- Cái đám đầu trọc ở Đại tự đã có mặt ở đây chưa? Cho giải bốn cái tên cướp trắng lên đây cho ta.

- Dạ bẩm chủ tướng. Hiện đám tăng ở Đại tự hương Phù Đổng đang có mặt ngoài kia. Bốn tên thủ lĩnh Bạch Hổ cũng đang chờ ngài xét hỏi. Chủ tướng cứ hỏi lần lượt đám tăng rồi hãy hỏi đến bọn tướng cướp ấy.

Dương Thanh hỏi đám tăng trước, sau đó lại hỏi bốn tên thủ lĩnh kia. Tất cả như loạt, không ai nhận biết tảng đá ấy có từ đâu. Dương Thanh hỏi Sĩ Giao :

- Cái tên Giả Thường chủ trì Đại tự ấy, quân sư có thấy điều gì khác hay không?

- Vị ấy thoạt đầu nhìn tựa phật giáng thế, nhưng khi nghe vị ấy nói về pháp hạnh tại hạ e thấy có chút tâm không được dung dị. Nhưng dân chúng tung hô đám tăng như Phật. Lại thêm khi nhận đá ấy, tăng ấy chẳng chối mà lại tặng ngay cho thiếu chủ về mừng công với chủ tướng. Tại hạ thấy có một người đáng nghi ngờ. Đó là người…

- Ta thấy có một kẻ dung mạo uy nghi, dáng vẻ cương mãnh, da lại màu xanh vương giả tựa Kim Cương Thủ Bồ Tát. Nhưng mắt hắn đảo qua đảo lại liên hồi. Người nhà phật nhưng hắn toát lên sự dữ dằn kỳ lạ. Cái tâm bất minh tự khắc thấy hồi hộp sợ hãi. Nhà ngươi có phải nói đến người ấy chăng?

- Dạ đúng. Quả nhiên hắn có chút gì đó khiến tâm không yên, vẻ lo lắng toát lên khuôn mặt. Tại hạ đã từng nhìn thấy hắn. Khi ở Đại tự, tại hạ cùng thiếu chủ đã nhìn thấy hắn vác tượng phật nghìn cân mà chẳng chút nhăn nhó.

- Lại có kẻ khỏe đến như vậy sao ? Gã Quỷ em ngươi sức có bì được hắn hay chăng?

- Tại hạ e là có chút kém phần. Gã Quỷ mình đồng da sắt, sức khỏe vô lượng nhưng chút nào đó vẫn thua sức hắn.

Sĩ Giao bàn bạc với Dương Thanh một hồi lâu, lại cho gọi Lập Đức sư phụ vào trong trướng mà bàn. Canh tỵ hai khắc, Chí Liệt cầm một bức trướng khổ lớn ra ngoài công đường. Bọn tăng nhân phía dưới bàn tán xôn xao về bức trướng. Lúc đó gã quỷ Tồn Thăng chạy tới, mặt mày giận dữ, tay cầm chắc dao quắm gườm gừ đám tăng ấy, quát tháo ầm ĩ. Bọn tăng nhân ấy vẫn chẳng hề có phản ứng gì khả nghi. Sĩ Giao bèn phải cho người thả đám ấy đi.

Cùng lúc thả đám tăng nhân, Dương Thanh sai Chí Liệt cùng Dương Diện giải bọn cướp Lục Bạch Hổ ra pháp trường phía thành Luy Lâu để hành quyết. Mỗi xe ngục, Dương Thanh nhờ thầy Lập Đức viết lên ấy những lời kể tội lỗi của bọn chúng bằng văn tự cổ và cho Liễu tá Đặng khả đi cùng lớn tiếng đọc lên những lời ấy. Chí Liệt cầm bức trướng lớn khi nãy đi trước đoàn.

Đoạn đến phía đông cổng La Thành chừng năm dặm, xuất hiện từ đâu có một gã mình cao lớn, uy nghi, lại nói giọng rất giống người xứ Tiên Du một mình xông tới nhảy lên xe ngục của tên Đại hổ Ngũ Tử Hùng. Chí Liệt sai lính thắt chặt vòng vây không đám ấy cướp tù. Dương Diện gã quỷ xông tới đánh với kẻ lạ mặt.

Sĩ Giao sai cho lính chạy vội về phía La Thành. Chí Liệt tay cầm chắc cây thương hướng về kẻ lạ mặt kia hỏi lớn:

- Là kẻ nào dám cả gan cướp tù?

- Lũ quan quân các ngươi! Tất cả chỉ là đám chó gà. Các người nghĩ dùng chữ viết kia mà mắng chửi hạ nhục bọn ta thì sẽ tìm được người các ngươi cần tìm.

- Ra chính là ngươi! Ngươi nghĩ là nhà là ai mà dám cướp tù? Còn không mau mau chịu trói.

Tên thủ lĩnh thấp lùn, bủng beo mặt hớn hở:

- Tứ đệ. Mau mau cứu bọn ta.

Chí Liệt mặt mày nghiêm nghị, quát lớn :

- Thì ra là tên cướp chạy trốn. Cuối cùng thì cũng chịu tới đây nộp mạng.

Chí Liệt đốc ngựa chạy tới, vung thương đâm hắn. Tên ấy nhanh như sóc, nhảy lên đạp vào một tên lính áp nha đương cưỡi trên ngựa ngã nhào xuống đất. Chí Liệt đuổi theo chạy đến bờ sông Thiên Đức thì gã đột nhiên quay lại, cúi người xuống phản đòn khiến Chí Liệt bất ngờ. Thiếu chủ kéo cương khiến ngựa nhảy bổ lên cao, hý vang. Tên kia tay cầm trảo hét lớn:

- Thanh Long kim cương trảo.

Đôi tay hắn giương lên hai móng vuốt vảy xanh ánh ngọc, dùng uy lực sấm sét của đôi tay ra đòn khiến ngựa của Thiếu chủ ngã dúi dụi, máu chảy lênh láng.
Chí Liệt thoát nhanh khỏi yên ngựa, cắm thương xuống mặt đất để lấy lại thăng bằng. Chí Liệt lớn tiếng hỏi hắn :

- Nhà ngươi là người từ đâu đến? Danh tính thế nào? Võ ấy ngươi học được từ đâu?

Hăn cười lớn, lại quất ngựa xống tới sát chỗ Chí Liệt mà nói:

- Nhà ngươi muốn danh tính người sẽ cho ngươi chầu trời, xuống âm ti mà bảo với Diêm Vương là người giết ngươi tên Tứ Hổ Long Trạch.

Nói rồi, hắn rút song câu toan chém Chí Liệt, Chí Liệt lấy mũi tên dương cung bắn trúng tai ngựa, ngựa lồng lên khiến hắn không thể kiềm chế được. Hắn quắp lấy hai chân vào cổ ngựa, ghì chặt khiến ngựa lăn ra chết. Hắn nhảy xuống đất, đôi vuốt sắc lóe lên trong ánh nắng ban trưa. Chí Liệt giương cây thương lên quát lớn:

- Cái tên thất phu. Tên thì rồng không ra rồng, trạch không ra trạch. Cướp gà trộm chó không xứng chết dưới cây long phượng huyền thương của ta, lại còn ở đó to mồm hay sao.

Long Trạch mặc áo một màu nâu sẫm, mặt quấn khăn kín mít. Đôi mắt xanh ngọc đảo liên hồi, Chí Liệt dường như nhận ra đôi mắt đó, liền hỏi:

- Ta và ngươi dường như đã gặp ở đâu?

- Khỏi cần phải hỏi. Ta chẳng quen cũng không thèm biết lũ chó quan các ngươi. Mau mau thả anh em ta ra. Không thì đừng hòng sống sót.

- Được. Để ta xem nhà ngươi là kẻ nào!

Chí Liệt hét lớn, tiếng vang dội sóng vỗ bờ. Cây huyền thương lao vút xé toang hạt nước còn vương trên ngọn lau. Tên cướp nhanh chóng dùng vuốt sắc đỡ chiêu của Thiện tướng. Hai bên giằng co đến giữa trưa canh ngọ, chạy đến chục dặm đường tả ngạn sông Thiên Đức. Dưới cái nắng của buổi trưa mùa thu, Chí Liệt ướt đẫm mồ hôi, mượn chiêu của tên cướp lao vào xé toang manh giáp trên người. Từng bắp cơ của chàng nhẫy bóng dưới ánh nắng. Chàng ném cung xuống đất như trút bỏ gánh nặng, dồn sức vào cây thương mong hạ sát tên cướp.

Đúng lúc hai bên giao đấu đến hồi gay cấn, Bình Nam đại hổ dùng thương ghì chặt trên vai Tứ hổ toan lấy mạng hắn thì có tiếng vó ngựa chạy đến. Tồn Thăng vội vã lao tới dùng cây gỗ to thúc thẳng vào mạn sườn phải của tên cướp. Tên cướp thấy sức lực gã Quỷ vô thường định bụng chạy trốn. Chí Liệt dùng thương truy sát, hắn chạy nhanh thoăn thoắt chỉ trong nửa khắc đã thoát khỏi sự truy đuổi của thiếu chủ. Gã Quỷ đuổi theo dùng dao quắm chém ngang cổ tên cướp. Tên cướp né được nhưng mảnh vải che mặt lại bị dính vào dao của Gã Quỷ. Gã Quỷ cười lớn:

- Thì ra là gã đầu trọc mặt xanh. Ta trở về báo lại cho Sĩ Giao anh ta mới được.
Nói rồi, Tồn Thăng thúc ngựa quay lại gặp Chí Liệt chạy đuổi theo. Gã Quỷ vội vàng khoe :

- Nhà ngươi có biết gã là ai không? Tên hòa thượng mặt xanh.

- Hắn đâu?

- Hắn chạy đường kia.

- Sao nhà ngươi không đuổi theo hắn.

- Thì là ta quay lại báo cho Sĩ Giao huynh hắn là gã đầu trọc mặt xanh.

Chí Liệt tức tưởi:

- Cái tên ngốc nhà ngươi. Không đuổi theo bắt hắn mang về lại còn quay về báo.

Chí Liệt giằng ngựa của Dương Diện thúc ngựa về phía Long Trạch chạy. Đến bờ sông Thiên Đức, cách phía nam hương Phù Đổng tám dặm đường, Chí Liệt hô lớn:

- Thuyền kia dừng lại. Trên ấy có tên cướp Bạch Hổ.

Thuyền đi vội về phía đông nam, rồi cập bờ phía ấy. Phía sau Chí Liệt có hai vị hòa thượng đi tới, họ Dương hỏi :

- Lập Đức có việc gì qua đó?

- Là sư phụ ta muốn tới đây để cảm tạ vị hương hào họ Nguyễn khi xưa đã dựng tự.

- Sông lớn, lại chẳng có đò qua. Để cướp kia chạy trốn, ta chẳng thể an lòng.

Lập Đức ném một cục đá lớn xuống mặt sông, dòng nước cuốn mạnh viên đá ấy. Lập Đức nói :

- Sông sâu khó qua. Mong thí chủ lượng sức mình tránh điều tai ương.

Tồn Thăng kéo tới ba cây gỗ lớn, buộc lại thành bè nói:

- Mời thiếu chủ qua sông.

- Hay lắm. Kẻ ngốc đôi vẫn có lúc sáng suốt. Ta sẽ dùng bè của ngươi để qua sông.

Nói rồi, ngựa cùng Chí Liệt bước lên, Tồn Thăng dùng sức mạnh phi thường đẩy bè ấy quá nửa sông. Bỗng có gió lớn, nước sông liền chảy mạnh. Tồn Thăng níu thừng giữ chặt bè. Không thể cưỡng lại được sức nước, thừng đứt, bè chống chếnh giữa dòng.

Vị hòa thượng họ Trịnh ngồi thiền cạnh đó chẳng mảy may đến điều đương xảy ra khiến gã quỷ nóng giận quát lớn :

- Thiếu chủ chống chếnh giữa dòng. Ông còn ngồi đấy thiền với tụng.
Lập Đức cản lại :

- Thí chủ bớt nóng giận. Sư phụ sẽ có cách để cứu giúp Dương tướng quân.
Sư thầy họ Trịnh lẩm nhẩm trong miệng, tiếng gió bỗng dừng lại, nước sông lại hiền hòa. Từ phía sông có làn gió ấm thổi ngang sông đẩy đò trở lại bờ. Chí Liệt lấy lại bình tĩnh cho ngựa bước trở lại sông. Chí Liệt chạy lới bái lạy vị cao tăng :

- Quả là phi phàm. Đệ tử đội ơn công cứu mạng.

Phía bên kia sông lại có tiếng vọng sang:

- Quả các ngươi có thần tiên phù trợ. Thù này ắt trả. Các người hãy nhớ lấy ngày hôm nay.

Gã Quỷ ngấp nghển nhìn sang, giọng nói dữ dằn:

- Rồi bọn ta sẽ tìm ra ngươi.

Từ phía bên kia sông, mặt trời chói chang rọi xuống mặt sông lấp lánh, bóng người khuất dần theo những ngọn cỏ lau phía đó. Lập Đức thở phào nói:

- Dị tà chẳng thể thắng nổi chính đạo. Người đó dùng tà pháp sai khiến hà bá, thần gió toan dìm chết ngài.

Chí Liệt nhìn theo dáng người phía bên kia sông, giọng còn ngậm ngùi:

- Cao tăng chính là quý nhân của ta. Chỉ tiếc rằng kẻ ấy dùng dị tà mà thoát mũi huyền thương này.



Nguyễn Khai Quốc đã viết:

Bài ca Giống Rồng

Trùng trùng sóng vỗ nhẹ bờ đông

Điệp điệp non cao chí sĩ hùng

Ánh kiếm bóng thương nhăn mặt nước

Hương rừng vị biển chén cay nồng

Giang sơn gấm vóc ai nào khóc

Bỗng chốc cơ đồ hóa bỏ không

Lặng lẽ trông theo làn khói trắng

Ầm vang tiếng gọi giống Tiên Rồng



Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.

Chương 4.1 Cái uy của quỷ

Dương Thanh nghe tin quân triều đình đến biên giới phía bắc liền sai Chí Trinh dẫn quân đến thành Nà Lữ vùng biên ải đóng quân tại đó để nghênh địch. Lý Do Độc được tăng viện năm nghìn binh mã từ các vùng Ái Châu, Hoan Diễn cùng với thứ sử châu ấy là Vương Thăng Triều mềm dẻo với đám dân Man Hoàng ngăn không cho bọn Nam Chiếu nhòm ngó khi quân triều đình chưa đến lấn đất của người Lão, Lý. Các vùng Hoan, Ái, Diễn Châu đều được lệnh đóng cửa biên giới, quân đội sẵn sàng. Vùng trọng điểm trấn Hải Môn là con đường dễ đi, Dương Thanh sai Sĩ Giao, Triệu Hoằng trấn giữ. Chí Liệt nắm trung quân cùng dân ấp Chu Diên của quan huyện úy Đỗ Đại tạo phòng tuyến dọc từ cửa biển Nam Triệu đến cửa ngõ sông Nhị.

Quế Trọng Vũ được triều đình họ Lý sung quân ở các châu Quảng, Quế, Ung, Ích đến hơn chục vạn quân đóng tại biên giới xứ An Nam. Lại cho đạo thủy quân gần ba trăm chiếc thuyền chiến lớn nhỏ đi từ bờ biển đất Quảng Châu, Quỳnh Châu đi vào cửa biển các sông Vân Cừ, sông Nhị.

Được lệnh đóng cửa biên giới, quan quân xứ An Nam cắt đứt mọi liên hệ với bên ngoài, cố thủ tại các thành trì kiểm soát gắt gao kẻ ra người vào. Đương mùa còn nước đang lên, lúa còn chưa chín hết ngoài đồng, quân lính vội vàng gặt lúa để chở vào các thành trì, kho quân lương để dùng. Chẳng đến một tuần, các cánh đồng đã không một bóng người, chẳng còn một gốc dạ. Trâu bò cũng được thu về dắt thả trên núi, tránh họa chiến tranh. Dân chúng gói ghém đồ đạc, kẻ ngược người xuôi tìm cho mình chỗ ẩn náu an toàn chờ đợi cuộc chiến sắp tới.

Trong lúc quân tình cấp bách, Dương Thanh nhận được thư của viên Liễu tá Đặng Khả tấu trình. Trong thư viết rằng:

"Lão là kẻ ăn lộc trên ban ở Tống Bình này cũng đã được hơn hai chục năm, cũng là dân xứ An Nam này, bằng tất cả tim gan này kính lên Dương tướng quân, mong tướng quân minh xét. Ngoài đồng lúa còn chưa kịp vụ, vội vã gặt lúa ấy là điều chẳng nên làm. Nay thấy dân chúng vừa qua cơn lầm than, quân lính còn chưa thoát cảnh đao thương đã phải chuẩn bị cho cuộc chiến mới mà chưa biết là kẻ thắng được gì, người thua mất gì. Mà chỉ thấy thương thay dân Lão, Lý, người Giao Chỉ, người Hoa Hạ, tất cả đều là con dân xứ An Nam này, đều chịu cảnh khói lửa binh đao. Gốc dạ còn chưa kịp ải, đồng lúa còn chưa kịp cày. Quân lính no vụ này, người dân chắc gì đã không đói. Ấy rồi còn mùa sau, mùa sau nữa,… Thật là không nên.

Kẻ tôi mọn không dám bàn việc thiên hạ. Chỉ mong Dương tướng quân rộng lượng với chúng dân. Nếu tướng quân không chịu nghe lệnh triều đình thì cũng chớ nên lấy máu của dân ra tắm. Xót thay, xót thay.

Bằng ấy lời mong tướng quân thấu hiểu tâm can."

Dương Thanh nổi giận đùng đùng, gọi Đặng Khả vào phủ. Dương Thanh hỏi:

- Kẻ nào xúi ngươi nói những lời sằng bậy ?

- Tự tâm can tại hạ thấy điều ấy! Đâu phải kẻ nào xúi lòng?

- Đừng nghĩ lão già cả mà ta không dám làm gì lão. Kẻ quân tử sao phải luồn cúi, chui rúc những kẻ tiểu nhân. Ta thà chết chứ chẳng thể chịu nhục được hơn nữa.

- Chừng ấy năm làm quan làm tướng chắc tướng quân thừa hiểu. Ngậm bồ hòn làm ngọt ấy cũng là thương dân. Nằm gai nếm mật nuôi chí lớn, ắt sẽ thành.

- Nhà ngươi chớ có múa mép khua môi. Dòng dõi ta mười mấy đời làm thứ sử, lãnh cả một vùng đất phía nam. Đám quan lại triều đình ô nhũng, nhiễu nhách như vậy là quá đủ rồi. Giết Tượng Cổ, đánh Lục cướp ấy cũng là thỏa nguyện ý dân. Nay triều đình kia cho là ta phản phúc, mang quân lính đến bờ cõi ta, ý là nghĩa thế nào.

- Tại hạ không can ngài chiến đấu vì dân, chỉ dám mong ngài suy xét trước sau. Kẻ biết nhún nhường, lựa thời cơ mới làm lên đại nghiệp. Gương Hán Liệt Đế, Tấn Tuyên Đế còn sáng. Kẻ tức giận vì kỉ xưa có Sở Vương, sau có Dạng Đế lấy máu dân tắm mình vẫn còn đấy. Triều đình trước có ban chiếu phong tước cho tướng quân. Mà chuyện cũng đã rồi tại hạ không bàn nữa. Nay triều định nổi giận cho là ngài khi quân, kháng chỉ. Lỗ Hạo cũng chẳng phải kẻ quân tử mà xàm tấu. Tội ấy triều đình nào lại không xét. Chi bằng ngài thuận lòng dân, vờ đầu hàng, đút lót cho họ Quế kia, việc này chẳng coi như đã xong hay sao.

- Bì La Cáp dựng Quy Nghĩa kia vẫn sáng. Đại Lễ giờ hùng mạnh kém ai. Đất nam ta dân chúng đông đúc, tàu bè qua lại giao thương cũng nhiều. Há lại kém nơi kỷ ho cò gáy ấy. Việc hèn hạ ấy ta không thể nghe theo. Nếu còn lời lẽ sằng bậy làm nhiễu loạn lòng quân dân, cứ theo chín mươi điều cấm mà nghiêm trị.

- Vậy ngài hãy giết chết ta ngay tại phủ này.

Dương Thanh chẳng quay đầu lại, gọi lính giải họ Đặng vào ngục tối. Cùng lúc đó, Gã Quỷ Dương Diện chạy tới báo tin:

- Bẩm tướng quân. Theo dò la, tại hạ đã biết tên mặt xanh ngày trước cướp tù toan giải cứu cho bốn tên thủ lĩnh chính là vị hòa thượng ở Đại Đường tự. Kẻ này cũng chính là kẻ khắc chữ lên đá ở trên núi Tiên Du. Tiểu nhân đã sai người cho
bao vây tự, không để kẻ nào chạy thoát.

- Ta nghe nói hắn là bạn tâm giao của Lập Đức sư phụ. Nhà ngươi có biết chăng?

- Là cái gã đầu trọc ở chùa nhỏ kế bên. Tại hạ biết hắn.

- Bắt giải hết chúng về đây. Không cho kẻ nào chạy thoát. Kẻ nào chống lệnh giết ngay tại chỗ.
Tồn Thăng tuân mệnh vội vã chạy ra cửa, hắn lại quay lại hớt hải hỏi :

- Lão già họ Đặng làm điều gì đắc tội với tướng quân? Bọn sai nha lôi lão đi như lôi một thằng què vậy?

- Việc ta giao cho nhà ngươi không lo. Lo chi chuyện ấy!

Tồn Thăng lẩm bẩm trong miệng , bước từ từ ra cửa. Dương Thanh quát lớn khiến hắn giật mình :

- Trời sáng, còn chưa đi mau.

Sáng sớm ngày sau, khi còn gà gáy, Tồn Thăng hý ngựa, ngựa chạy tới, hắn nhảy vút lên ngựa hướng thẳng Phù Đổng lưỡng tự. Tới nơi, hắn la lối om xòm, mắng chửi thậm tệ người trong chùa. Lập Đức nghe thấy bước ra khỏi chùa, giọng từ tốn hỏi:

- Tướng quân không biết có nỗi niềm gì lại tới đây mắng mỏ đám sư trong Đại tự ấy.

- Ra là ngươi. Lão trọc đầu đồng đảng với cướp. Bay đâu bắt hết giải vào nhà lao phủ Tống Bình.

- Vị tướng quân này bớt nóng giận. Ta đã kể hết sự tình với Sĩ Giao quân sư. Ngài về bẩm lại với Dương Thanh tướng chủ giúp bần tăng.

- Thôi đừng có nói nhiều. Bay đâu bắt hết về phủ.

- Tướng quân đã nói vậy thì bần tăng xin được tự đi tới đó.

- Đừng có thấy ta ngốc nghếch mà giở trò. Bọn bay bắt cả lão trọc đầu họ Trịnh kia giải về phủ.

Bọn lính tráng chạy vào trong chùa nhỏ bắt giải vị hòa thượng họ Trịnh. Từ phía Đại tự chạy ra, cả một đám tăng nhân, người cầm trượng, người cầm gậy gộc, đòn gánh đứng bao vây đám lính. Vị hòa thượng Giả Thường mặc áo cà sa óng mượt bằng tơ lụa nghiêng mình cúi chào Tồn Thăng. Tồn Thăng nói lớn:

- Các người còn không mau giao nộp tên cướp mặt xanh. Không thì đừng có trách ta không nương tay.

- Chốn cửa phật mong thí chủ chớ buông lời thóa mạ. Để bần tăng giải thích.

- Đừng có nhiều lời nữa. Đến phủ rồi giải thích với Dương tướng quân.

Nói rồi, đám lính xông thẳng vào đám sư sãi chùa ấy mà đánh. Được lệnh của Tồn Thăng, đám lính càng hung hãn vung gươm giáo thẳng tay. Hai gã hòa thượng bặm trợn cùng vác cây lớn nhằm ngựa của Tồn Thăng. Tồn Thăng kéo cương ngựa quay đầu lại rồi nhảy xuống ngựa, tay rút kiếm chém chẻ đôi cây lớn. Vị chủ trì Giả Thường lùi lại vào Đại tự đóng chặt cửa chùa, nói lớn ý cho hai kẻ mặt mày hung tợn kia:

- Giả Không cùng Giả Thanh ở lại gắng chống cự bọn chúng.

Đám lính của Tồn Thăng mất hàng ngũ, kéo cả đoàn vào nơi hỗn loạn mà đánh đám tăng kia. Sau nửa canh giờ, Tồn Thăng cho bắt trói tất cả đám tăng. Tồn Thăng lại cho người mắng mỏ đám tăng trốn trong chùa. Suốt một canh giờ không thấy động tĩnh gì, Tồn Thăng cho người phá cửa chùa nhưng không thể phá. Tồn Thăng gạt đám lính sang một bên, tự mình dùng sức lao vào cánh cửa đồng. Gã Quỷ chợt nghĩ :

- Là đám tăng trốn trong tự mà cửa chùa lại cứng nên ta mới phải chịu. Ta về báo lại cho lão họ Dương kia như thế liệu có sao không ?

Gã Quỷ suy nghĩ một hồi quyết định cho thu quân về, cùng với đó là đám hòa thượng bị trói. Đi được đoạn nửa đường, từ phía nam đi tới là một đoàn quân người ngựa dũng khí ngời ngời chạy tới. Giáp hoa, cờ thêu chữ vàng óng ánh trên lụa bay phấp phới trong gió. Gã Quỷ thấy lạ liền hỏi:

- Các ngươi là lính từ đâu đến? Kẻ cầm đầu là ai?

Có một tên cưỡi ngựa, hắn bịt kín mít khuôn mặt chỉ lộ ra hai đôi mắt. Giọng nói giống người xứ Quảng bắc Lĩnh Nam, hắn đáp :

- Ta là Trương Sang, là tướng kỵ binh của Chí Trinh thiếu chủ. Về đây có tin cấp báo.

- Chí Trinh hắn đang ở Nà Lữ phía bắc, chống quân triều đình. Nhà ngươi đi từ phía nam lại cho quân lính mặc hộ giáp về phủ e có điều gì không phải.

- Thiếu chủ bảo ta mang hai trăm binh kỵ về tăng cường cho trị sở. Nhận lệnh ta gom thêm quân ở Chu Diên, vượt sông Thiên Đức tới đây thì gặp ngươi.

- Ra là thế. Tại sao quân lính lại bịt mặt hết thế kia?

- Bẩm tướng quân. Bọn tôi là lính mật nên mới ăn mặc như vậy tránh khỏi sự tò mò của kẻ khác.

- Cờ thêu chữ gì? Nắng quá, mắt ta không có đọc được.

- Bẩm là chữ "Dương".

Gã Quỷ cho một tên lính chạy tới đám lính kỵ ấy thì gã đọc lớn :

- Là chữ Trương, không phải chữ Dương.

Có tên bắn lao vút ra, tên lính ấy ngã xuống tại chỗ. Gã Quỷ ra lệnh toàn quân giữ vững đội hình chuẩn bị chiến đấu.

Sang cười lớn, ra hiệu cho đám lính kỵ chạy tới vung gươm giáo mà chém đám lính bản bộ của Tồn Thăng. Thăng thấy lính không thể chống cự được liền ra hiệu cho đám lính chạy về phía con kênh gần đó. Tồn Thăng cưỡi ngựa dùng dao quắm chém chết năm tên lính kỵ rồi bỏ chạy về phía con kênh. Đám hòa thượng nháo nhác chạy thì tên đứng đầu lính kỵ quát lớn:

- Tất cả đứng lại. Nghe ta chiến đấu với đám lính của họ Dương kia thì sống. Kẻ nào chạy ta giết chết kẻ ấy.

Bọn hòa thượng được đám lính kỵ cởi trói, phát vũ khí cho. Hai đội quân hợp một truy đuổi lính của Tồn Thăng. Gã Quỷ chạy tới bờ kênh sai cho đám lính dừng lại, gào thét:

- Đứa nào xông lên giết chết thằng cầm đầu sẽ được thưởng hai trăm lượng.
Có một tên áo quần xộc xệch chạy đến, tay cầm giáo dài xin ra trước đón đám ấy. Tồn Thăng bảo tên giám quân nhường ngựa cho hắn. Tồn Thăng hô lớn lấy sĩ khí quân lính:

- Giặc ở phía trước, cái chết phía sau. Mau mau mà giết giặc.

Tên lính tiên phong chạy lên trước, chém chết hai lính kỵ, Tồn Thăng cho ngựa lao lên. Bọn lính thấy thế cũng liều mình lao lên phía trước. Giao chiến hỗn loạn, đám lính kỵ ngã ngựa liên hồi. Tồn Thăng ra lệnh người nào bắt được ngựa thì quay lại chém giặc. Sau nửa canh giờ, đám hòa thượng chạy trốn hết loạt. Lính kỵ còn lại phân nửa, phía quân Tống Bình chỉ còn Gã Quỷ một mình một ngựa. Tên thủ lĩnh cười lớn:

- Bọn tiểu nhân phản phúc. Ăn lộc trên lại trở mặt giết người trên. Nay ta thay mặt cho vương tử Đạo Cổ trừng trị các ngươi.

Tồn Thăng lấy làm giận lắm nhưng gã không thể làm gì, toan ném dao quắm về phía tên thủ lĩnh. Ngựa của tên thủ lĩnh thất kinh khiến hắn ngã ngựa. Tồn Thăng cười lớn:

- Ra chỉ là thằng cưỡi ngựa chưa vững mà cũng đòi đánh với ta.

Tay thủ lĩnh bỏ mạng che mặt xuống. Đôi tay vuốt vảy rồng nhảy lên ngựa lao về phía Tồn Thăng. Gã Quỷ tay không vũ khí bỏ chạy về hướng Tống Bình. Gã còn quay lại nói lớn:

- Cái loại quỷ da xanh nhà ngươi. Đừng hòng bắt được ta.

Long Trạch cho đám lính kỵ đuổi theo Gã Quỷ hòng giết chết gã. Có mũi tên bắn ra, trúng phía lưng phải gã. Dương Diện nén đau thúc ngựa thục mạng chạy nhanh hơn. Đến cổng La Thành, Dương Diện cho gọi mở cửa thành. Thấy hồi lâu không có người mở cửa, Gã Quỷ chạy lòng vòng quanh thành gọi ầm ĩ. Đến cửa phía Đông, có bóng người đi lên thành Gã Quỷ hớn hở gọi :

- Này tên kia. Mau mở cửa thành cho ta vào. Có đám người định truy sát ta.

Người trên cửa thành nói lớn vọng xuống:

- Nhà ngươi còn không mau chịu trói.

- Ra là gã hòa thượng thối nhà ngươi. Giả Thường giả dị cái gì. Ta phỉ nhổ vào.
Lúc ấy, gã hòa thượng da xanh cũng đuổi kịp tới nơi. Quân lính vây quanh Tồn Thăng. Gã Quỷ gầm gào hung dữ, mọi thứ dị tật trên người gã lại hằn lên. Đám lính thần hồn nát thần tính lui lại. Gã chạy ngựa tới một tên lính kỵ cầm thương, rút mũi tên trên lưng hắn mà phi cắm giữa trán tên lính ấy đoạt thương.

Gã cầm thương chém tứ phía, ngựa xông thẳng tới chỗ Long Trạch. Long Trạch dùng song câu giao chiến với Gã Quỷ Dương Diện. Giao đấu được ba mươi hiệp, biết mình không thể chống cự được Gã Quỷ thúc ngựa chạy thẳng vào vòng vây, lấy hết uy lực chém chết cả chục lính kỵ thoát về hướng Tây Bắc. Long Trạnh thúc ngựa đuổi theo đến bờ sông Nhị đoạn có bãi bồi giữa sông, bên kia có bóng cây đa lớn rủ xuống sông Nhị thì không thấy Dương Diện đâu nữa, chỉ thấy toàn cây lau mọc cao hơn đầu người lớn. Nhìn một hồi xung quanh không thấy người đâu, Long Trạch toan trở về La Thành.

Có một trận mưa vần vũ kéo đến nhanh, Long Trạch quay đầu trú dưới một lều tranh gần bờ sông. Trận mưa ào qua chỉ trong chớp mắt đã tạnh. Long Trạch thấy có xoáy nước giữa dòng đang tiến lại gần bờ chỗ Trạch đang trú. Trời nắng gắt trở lại, Long Trạch chạy ra ngoài lều tranh có tiếng vọng lớn từ túp lều :

"Đông hải kình trắng

Ngạc ngư vũng lầy

Chớ có tới đây

Phạm vào sát tội"

Lời vọng vừa dứt thì túp lều cùng cả bờ đất bị xoáy nước cuốn trôi. Hoảng hồn Long Trạch thúc ngựa chạy thẳng về La Thành, không dám ngoảnh đầu lại. Từ bụi lau, có bóng người lấp ló bước ra. Tiếng ngựa hý vang không khiến người này lo lắng. Anh ta bước ra gọi lớn:

- Này vị tráng sĩ kia. Bước đường cùng còn đi đâu nữa. Chi bằng qua sông với ta.

- Việc công còn dang dở, tướng chủ còn lưu lạc. Thăng ta phải đi tìm.

Gã Quỷ thúc ngựa chạy đi về phía trước, một lát ngựa lại chạy lại chỗ cũ. Nghĩ trong đầu đường ấy là sai đường, Dương Diện lại cho ngựa rẽ về trái đường, đi lòng vòng một hồi lại trở về chỗ cũ. Cứ như vậy, đến lần thứ tư Dương Diện quát lớn:

- Là kẻ nào dùng tà thuật?

Chàng trai khi nãy bước ra, dáng người gầy, đôi tay dài sải, đôi bàn chân bè ra như chân vịt mặc chiếc khố màu nâm sậm. Làn da ngăm đen, mái tóc xõa ngang vai, trán anh ta buộc một dây vải vòng ra phía sau. Mũi gãy, tai nhỏ như chuột, đôi mắt đượm buồn đen nháy. Anh ta cười mà mặt trông chẳng thấy vui hơn, môi dưới trề ra nói :

- Ta nghe có vị tướng quân ghé thăm, lại muốn nhờ ta xem trí tài người ấy thế nào. Hóa ra chỉ là một tên ngốc.

- Ngươi là kẻ nào? Đừng có đứng đấy già mồm. Có giỏi đánh với ta một trận.

- Tại hạ là người làng Chèm đất bên kia sông, tên là Lý Toàn, người làng vẫn gọi là Nga Tú Du Thủy. Tướng quân xin bớt giận. Người làm tướng, khi đánh trận đâu chỉ lấy sức mạnh mà còn phải dùng cả cái này.

Chàng thanh niên cầm một cây sậy chỉ vào đầu y. Tồn Thăng lại nói :

- Cái bộ tóc của nhà ngươi thì làm được trò trống gì.

Anh chàng lại cười phá lên. Tồn Thăng mặt phừng phừng tay cầm cây thương dí vào cổ anh chàng. Chàng ta không tỏ gì lên khuôn mặt, lại lấy lá sậy vờn ria mép mà nói :

- Dũng tướng xin chớ nóng giận. Ta đây chỉ là muốn cứu ngài đấy thôi.

Tồn Thăng rút thương lại, có tiếng cười lớn từ lòng sông vọng tới:

- Dương Diện Lão Quỷ Tồn Thăng. Còn chưa chịu nhận mình ngốc sao.

- Ra là nhà ngươi, Đặng Hoài. Không lo giữ thành lại lạc đến đây chơi để cho đám đầu trọc kia cướp thành.

- Lão Quỷ lên thuyền, rồi cùng ta qua sông. Chủ tướng đang ở bên đó đợi huynh đệ.



Được cảm ơn :
13
:
Ngày tham gia :
25/05/2017
:

Nguyễn Khai Quốc
Thành viên
  • Thành viên
Được cảm ơn : 13
Ngày tham gia : 25/05/2017
Giống Rồng

Tác giả: Nguyễn Khai Quốc

Hồi thứ tư:

Rời La Thành, tướng họ Dương thoát hiểm.

Đến Đại La, lính Bắc phương giết dân.

Chương 4.2 Lúc hoạn nạn gặp kẻ hiền nhân

Đặng Hoài kể cho Tồn Thăng mọi chuyện. Thì ra đám tăng kia chẳng phải là dạng tầm thường. Đại Đường tự, ngày thắp hương thờ phật qua mắt chúng dân và quan lại, đêm thờ tiết độ sứ mới chết. Ngày luyện khí công, gánh nước trồng rau, đêm rèn binh đao nơi hậu viên, chờ ngày báo thù cho tên tiết độ sứ họ Lý. Ngày trước có ba kẻ Triệu Hoằng sai đi dò la lọt được vào chùa thì hai trong số ba kẻ ấy là người Hoa Hạ, một tên là Tăng thống phủ Tống Bình thời Đô hộ Tượng Cổ tên gọi Hoành Trinh, một tên là Quận châu mục Quản Đồ, một người nữa là đô đốc Thang châu Mã Tước. Đám ấy xưa được Tượng Cổ yêu mến, cất nhắc cho giữ những vị trí hiểm yếu. Sau khi hắn chết, những kẻ ấy thân cô thế cô, bắt buộc phải đầu hàng theo Dương Thanh.

Nghe tin Triệu Hoằng tuyển người dò la Đại Đường tự, chúng liền đến đút lót cho Triệu Hoằng. Vào đấy, chúng vượt qua những thử thách đầu tiên của đám giả tăng kia. Chúng được tin tưởng giao phó về Tống Bình dò la, tập hợp lực lượng để chờ ngày hôm nay, toan giết chết họ Dương cùng những người thân cận.

Đến ngày hôm qua, giữa đêm khuya, có người lấm lét chạy vào phủ bị bọn lính bắt được. Dương tướng quân cho xét hỏi thì Triệu Cường con trai Triệu Hoằng chạy tới bẩm báo người này chính là Mã Tước, một trong ba kẻ đã trà trộn được vào Đại Đường tự. Dương tướng quân hỏi hắn làm gì trong suốt thời gian ở trong tự. Hắn khai hết những gì hắn thấy và được biết cho Dương Thanh nghe. Nghe xong, cả giận Dương thanh toan cho người đến tự ấy mà đốt sạch bọn phản loạn. Mã Tước cản lại mà báo rằng nếu Dương Thanh ra ngoài thành trong đêm là sẽ có kẻ ám sát ngay. Nói vậy, Dương Thanh cẩn thận hơn, sai người mặc áo choàng, cưỡi ngựa đỏ đi ra ngoài phủ. Tiếng ngựa hý cất vang trong đêm, Dương Thanh nhận thấy lời của Tước là thật.

Dương Thanh hỏi Tước:

- Vì đâu nhà ngươi có ý quay lại giúp ta?

- Không phải là vì ngài khảng khái chính trực thì tiểu nhân chẳng nói ra điều này cho ngài. Chẳng giấu gì. Nhà tiểu nhân xưa ở đất Kiến Nghiệp, Giang Nam, ba đời làm quận úy đất Giang Lăng, đến đời ông nội tiểu nhân vì loạn An Lộc Sơn mà chạy về đất này. Đám quan lại ở Tống Bình hay qua lại nhà tiểu nhân, cha tiểu nhân mới giới thiệu tiểu nhân vào phủ, lại được tiết độ sứ yêu mến nên được giữ đất Thang Châu. Tiết độ sứ không được lòng dân chúng và các vị tôn trưởng người Nam như ngài nên bị giết. Thoạt đầu tiểu nhân có chút nghi ngại, nhưng sau những lời nói và hành động của ngài đối với đám quan lại chỉ chăm chăm nịnh trên lừa dưới kia đã thay đổi suy nghĩ của tiểu nhân. Ngài không ghét bỏ đám quan lại cũ còn sót lại mà những người được việc, có khả năng được ngài tận tâm nâng đỡ, gỡ những trói buộc trong đầu. Thật là đấng chủ tốt vậy. Khi vào Đại tự dò la, tiểu nhân như những người khác bị bọn ấy dò xét. Qua mắt được đám ấy thì tiểu nhân được thu nạp. Đám người ấy là tay chân của vương tử Đạo Cổ, trước lập chùa ở chốn đấy để đám quan lại Tống Bình có chỗ đi lại nương cửa phật. Sau khi Tượng Cổ chết, bọn chúng tối đóng chặt cửa, mưu bàn việc quân tình, lại cho người vào thành dò la, đút lót bọn quan, tướng hòng có được thông tin để dễ bề ra tay. Danh sách những người thân tín của ngài bị mua chuộc tiểu nhân có đây. Nhưng không phải tất cả nhận được tiền đều bán rẻ tướng quân. Đặng Khả là một trong những người như vậy, vì thấy tướng quân cho quân đóng tại biên giới nên mới ngăn cản. Sợ tướng nơi xa không thể cứu giúp binh biến bên trong Tống Bình. Đêm nay, tin biết ngài cho các tướng đi biên ải, chỉ để lại một viên tướng không mưu lược là Tồn Thăng nên mới có ý định ra tay cướp La Thành. Trong ứng, ngoài hợp e là không dễ để ngài thoát khỏi tay bọn chúng. Tiểu nhân bị bọn chúng nhìn thấy có lòng dạ khác nên bị bắt trói ba ngày nay, chẳng cho ăn uống gì. Đến sáng nay có vị hòa thượng tên Lập Đức vào tự ấy giúp tiểu nhân trốn ra ngoài, tiểu nhân vội đến đây báo với tướng quân.

Thấy lòng dạ người này không phải người xấu, Dương Thanh hỏi cách nào để thoát ra ngoài một cách an toàn thì Tước nói với Dương tướng chủ rằng Dương Diện lão quỷ là người có thể cản bước bọn chúng. Lại sai Gã Quỷ đuổi khéo Lập Đức cùng Vô Ngôn Thông để tránh tai họa cận kề. Cũng vì Gã là tướng soái có sức mạnh và đầy dũng cảm nhất còn lại ở Tống Bình nên việc cản bước lũ giặc trong nhà không ai phù hợp hơn.

Dương Thanh sai người hầu cận đóng chặt cửa phủ, lại mặc áo lính tuần đi cùng với đám Đặng Hoài, Triệu Cường dùng quân bài ra khỏi cửa thành phía tây, chạy đến bờ sông Nhị. Còn lại đám lính trung quân thì giao hết cho Dương Diện đi đối phó với đám tăng nhân Đại tự. Dương Thanh nói với Đặng Hoài :

- Thật là cực chẳng đã mới phải làm ra điều như vậy. Chẳng biết tên ngốc Tồn Thăng có thể chạy thoát mà tới chỗ này không.

Đặng Hoài đáp lời :

- Nếu Tồn Thăng là kẻ dũng, không mưu lược gì thì ắt sẽ như lời Mã Tước nói với tướng chủ.

Y lời Đặng Hoài, sau khi qua sông cùng với Lý Toàn, Đặng Hoài dắt Tồn Thăng vào diện kiến Dương Thanh. Dương Thanh lấy làm mừng lắm. Gã Quỷ máu chảy ngang lưng xuống đến gót chân. Dương Thanh sai người lấy áo khác thay cho Gã Quỷ, tự tay băng bó vết thương cho hắn. Dương Thanh hỏi gã:

- Vết thương này vì ta mà có. Ai nói cho nhà ngươi biết ta ở đây mà đến?

Gã cười :

- Nam tử hán, có chút này chỉ là gãi ngứa. Tiểu nhân từ Phù Đổng đến Tống Bình, thấy trên cổng thành có treo bốn chữ : "Dương Tây Trinh Đông" ý là tướng chủ phía tây, thiếu chủ đang ở phía đông.

- Vậy mà Triệu Cường và Đặng Hoài cho rằng ngươi chẳng thể hiểu được ý đấy.

- Là Lập Đức hòa thượng tới thành biết trong thành có biến nên đã nhắc ta đi về phía tây.

- Thế sư ấy đâu rồi?

- Sư bảo thế loạn không ở được lâu, lại đi cùng họ Trịnh hướng Đông Nam. Khi ấy, bọn giặc mặt xanh đuổi tới, tiểu nhân liền chạy đi tới đây. Tên tiểu tử tên Toàn giúp tiểu nhân tránh được giặc cướp mặt xanh kia. Chẳng biết hắn dùng tà thuật ra sao mà khiến xoáy nước dưới sông nói được, lại cuốn phăng bờ đất chỗ tên Long Trạch ấy đứng.

Lý Toàn tay cầm ria mép, giọng nói ba hoa:

- Toàn ta vốn cháu ba mươi đời của lưỡng quốc Đại tướng Lý Ông Trọng. Xưa tại bến này, ta bắt thủy quái chốn sông sâu, hà bá thủy tề có thá gì đâu. Bọn ấy nghe thấy tên ta mà rụt đầu sợ hãi.

Tồn Thăng nhìn Toàn với ánh mắt ngưỡng mộ. Gã Quỷ vỗ vai Toàn:

- Người thì bé loắt choắt, tay dài lều nghều như cái sào chọc…

- Ấy, ấy. Nhà ngươi đừng có nói thế. Áo con trai ta mặc đây là da của thủy quái, đôi giày ta đi cũng là da của thủy quái ấy mà may thành. Chiếc vòng này toàn là răng của thủy quái.

Tồn Thăng cười lớn, chỉ vào lưng hắn đầy vết sần sùi cứng ráp:

- Còn mái tóc bù xù cùng với cái lưng cứng ráp kia của ngươi cũng bắt chước theo thủy quái đấy. Ta hình dung con thủy quái của ngươi giống ngươi lắm.

Mấy người lại cười ùa theo Gã Quỷ. Dương Thanh can lời :

- Là Lý Toàn từ nhỏ đã sinh ra lưng đã bị vậy, chẳng thể khác được. Ngươi xem lại mình xem có khác gì quỷ sa tăng không. Mái tóc kia của Lý Toàn làm nghề sông nước để vậy cũng là cho tóc ấy nhanh khô, đầu không mọc nấm. Ngươi xem nhà ngươi thuở đầu đến với nghĩa quân của ta, chấy rận đầy đầu, lại suốt ngày lòa xòa chẳng chịu búi lên. Đánh nhau với đám quân triều đình, bọn ấy chẳng sợ khiếp vía mấy phần vì điều đó.

Lý Toàn cười nắc nẻ, còn Tồn Thăng mặt chẳng vui quay mặt đi bỏ qua chuyện. Gã hỏi Dương Thanh :

- Chủ tướng cớ sao bỏ thành để cho đám giặc cướp kia chiếm được.

Dương Thanh đập bàn, mắng trách:

- Là do ngươi! Ta nói ngươi đi sớm về sớm, ấy nhưng không chịu đi lại để đến sáng hôm sau mới chịu đi. Người không bắt được, lại bị chết đám trung quân.
- Theo ý của tướng quân, trời sáng gà gáy, tại hạ đã cầm lính đi. Nào ngờ bọn giặc ấy đứa nào đứa ấy giáp khiên đầy đủ, vũ khí ngắn dài đều có, cưỡi ngựa thuần thục. Thân tiểu nhân người không manh giáp, bọn giám quân được ba con ngựa, đám lính đi chỉ bắt người chứ nào đâu có chủ định đánh giết. Đã không bắt được đám giả tăng, lại bị cái tên mặt xanh kia dẫn quân đến. Thoát chết là may lắm rồi.

- Ai bắn ngươi?

- Là cái tên gì đó tên là Trương Sang. Hắn bảo là quân tiếp viện của Trinh thiếu chủ. Nào ngờ đọc tên hiệu trên cờ hắn thì bị bọn ấy bắn tên.

- Các ngươi giết được bao nhiêu lính, đám ấy có bao nhiêu người.

- Cả thảy giết được gần trăm, còn hơn nửa nữa. Thoát đến thành thì thành không mở. Trong thành hò reo ầm ĩ, quân lính đến cỡ bảy tám nghìn đứa.

- Nhà ngươi còn thấy ai đứng trên thành.

- Là tên hòa thượng Giả Thường, hai tên bặm trợn Giả Không, Giả Thanh, có đô úy Tống Bình Khương Nho, đám áp nha đô sứ đến bảy tám người.

- Thật là nuôi ong tay áo.

Đặng Hoài thấy vậy vỗ về họ Dương, Triệu Cường lại cho người soạn rượu thịt lên. Dương Thanh uống rượu mà lòng nóng như lửa đốt chờ tin báo về. Bữa tối tàn cơn, Dương Thanh ngà ngà nằm trên trõng tre thiếp đi.

Trong cơn mê sảng, Dương Thanh mơ thấy có một lão ông mình cao hai trượng ba thước, khí chất đoan dũng khác thường, giọng nói vang vang như sấm rền đang giảng đạo cho một người học trò nghe. Chàng thanh niên kia mải mê chăm chú nghe lời lão ông bàn về việc trị nước an dân, lại giảng giải kinh thư, luận sách Xuân thu kể chuyện nhân đức, trung nghĩa của những gương tiền nhân.

Dương Thanh bước nhẹ tới, ngồi cạnh chàng thanh niên mà anh ta không hề biết, Dương Thanh ngồi chăm chú nghe cùng. Anh chàng ngồi cạnh gù gật trên đống sách, gục mặt xuống bàn, Dương Thanh thảng thốt nhận ra người ấy là Triệu Xương, tướng chủ cũ của Giao Châu. Dương Thanh lay Xương dậy thì thầy chẳng trách phạt lại nhẹ nhàng dặn dò:

- Trước con là người chủ công minh, sau y là dũng tướng vì cái tội của kẻ trên mà diệt kẻ trên tự lập lấy danh. Tuy rằng y dũng mãnh, khí chất còn vương nhiều nóng nảy nên người dưới lắm kẻ không ưa. Vãn bình sinh mà thoát nạn.

Dương Thanh ngẫm thấy lão ông nói mình. Vội vàng cúi lậy nghe lời dạy. Lão ông đứng lên bục đá, mặt nhìn hướng tây bắc ngược dòng sông trước mặt nói rằng:

- Đất Bạch Hạc trước đời ta Vương họ Hùng chọn đất ấy mà lập ra nước Nam. Khí chất ở đấy vượng sung. Từ phía núi Hy Cương xuôi về đến ngã ba con nước long phượng cứ hùng. Nhà ngươi lui về đất ấy ắt tai họa lui dần.

Dương Thanh cúi lạy hỏi:

- Chẳng hay tên họ thầy là chi.

Dứt lời, lão hóa thành luồng sáng vàng bay lên trời, chỉ còn lại mây khói mịt mù ngang trời, sông nước mênh mông. Triệu Xương dắt Dương Thanh đi qua con đương rêu phong đầy đá, bước qua những lụi cây hoang tàn, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ thôn hoa rụng. Triệu xương chỉ tay lên bầu trời nói với Dương Thanh:

- Nhà ngươi nghe lời Phụ tín Đại vương nói đấy. Nhà ngươi vì ghét bỏ kẻ tham tàn mà tàn sát. Nay đại họa cận kề, y lời thần nói mà theo. Gặp người họ Lý thì dựa người ấy, có lúc cần nhờ đến. Gặp Vương thì bái lạy ắt sẽ gặp điều lành. Từ đất đình lớn này, lấy thuyền nhỏ vượt cửa Nhuệ giang sang bên kia là làng nhỏ Thị Điềm. Đất ấy có đền thờ Đại vương. Nếu hương lên, nhang cháy một nửa có cành tre gãy thì là ngài ứng báo. Còn không thì số nhà ngươi đến vận suy tàn.

Tỉnh dậy mơ màng, Dương Thanh nhận được tin báo về từ biên giới. Quân tình cấp bách, xé toang mơ hồ, Dương Thanh cùng Triệu Cường vượt sông sang đất Phong Châu. Tại đây Dương Thanh hợp hai nghìn quân phòng đông của thứ sử Vương Thăng Triều tại cửa Hát Môn. Trong đêm cho người bí mật về La Thành dò thám tình hình.

Lúc bấy giờ, Chí Trinh sau nhiều ngày cố thủ thành Nà Lữ đã phải bỏ thành khi quân triều đình được tù trưởng động Hổ dẫn đường. Sau khi mất thành, Trinh chạy vào núi, sai quân đóng tại đèo Mã Phục. Đêm đến sai lính đi đốt trại lính quân triều đình, cho thứ độc bẩn vào nguốn nước ăn của quân triều đình. Lại có kẻ phát hiện ra chỗ thiếu chủ họ Dương, Trọng Vũ sai năm trăm tên lính đi vây núi, đốt cháy cả núi. Chí Trinh cùng hơn một nghìn lính liều chết chạy theo đường núi chạy đến đất phía đông châu Bình Nguyên, đóng quân tại núi Hiếu Sơn, lại cho hai trăm lính đi đến bờ đông Lô Giang. Tại đây, Chí Trinh mượn lương thực của tù trưởng người Mèo là Giàng A Kha. Nhờ có một người trong vùng ấy biết tiếng người Lão, Chí Trinh cho người đó đi theo, dẫn đường xuôi sông Lô về đến đất huyện Thừa Hóa châu Phong.



Message reputation : 100% (1 vote)

Được cảm ơn :
19
:
Ngày tham gia :
27/10/2015
:
Tuổi :
27
:
Đến từ :
The Magic world
:
FatLourie
FatLourie

FatLourie
Trial Moderator - Box Fanfiction
  • Trial Moderator - Box Fanfiction
Được cảm ơn : 19
Ngày tham gia : 27/10/2015
Tuổi : 27
Đến từ : The Magic world
... Hết rồi hả?...




Sponsored content



Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Bình luận về bài viết

Bạn cần để bình luận về bài viết


Nếu chưa có tài khoản bạn vui lòng tài khoản

Quyền hạn của bạn:
Bạn không có quyền trả lời bài viết

 
  • Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất