Truyện Sáng Tác - nơi tụ họp những cây bút trẻ có đam mê sáng tác và mong muốn tác phẩm của mình được đón nhận. Hãy đến với chúng tôi và thỏa sức chia sẻ những tác phẩm do chính bạn sáng tác!




Chuyển đến trang : Previous  1, 2

Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 25

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Mãi rồi mặt trời cũng lên, chiếu sáng rừng hoang, những bụi cây và khu rừng non. Sư tử biến mất trước khi tia sáng đầu tiên bừng lên ở phía chân trời. Xtas bảo Cali nhó m lửa, còn Mêa lấy đồ đạc của Nen trong cái túi da, hong cho khô và thay quần áo cho cô bé ngay. Còn bản thân em cầm súng đi quanh khu trại chứng kiến cái cảnh tan hoang mà bão tố và hai kẻ sát sinh ban đêm đã gây nên. 
Ngay bên kia hàng rào - hàng rào chỉ còn lại những chiếc cọc chỏng chơ - là xác con ngựa đầu tiên đã bị ăn tới gần một nửa; khoảng trăm bước xa hơn là con thứ hai, mới bắt đầu bị ăn; ngay sau đó là con thứ ba với cái bụng toang hoác và cái đầu vỡ nát. Cả ba con bày ra một cảnh tượng thật kinh khủng, vì mắt chúng hãy còn mở trừng trừng, chứa đầy nỗi hoảng sợ đã bị đờ dại, răng nhe cả ra. Mặt đất bị xéo nát, trong những hõm sâu đọng lại từng vũng máu, Xtas bực bội ước thầm, mong sao cho từ sau một lùm cây nào đó nhô ra cái đầu xù lông của tên kẻ cướp no nê sau bữa tiệc đêm, để em có thể xỉa cho hắn một phát đạn vào đầu. Song em đành phải để dành cơn tức giận cho một dịp sau nào đó, vì giờ đây còn có việc khác phải làm. Cần phải tìm bắt lại những con ngựa còn sống sót. Cậu bé đồ rằng hẳn chúng phải ẩn vào rừng, cũng như con chó Xaba, vì không thấy xác của nó đâu cả. Niềm hi vọng người bạn trong khốn cùng này không bị làm mồi cho thú dữ khiến Xtas vui lên, niềm vui của em càng lớn hơn khi tìm lại được chú lừa. Hóa ra con vật thông minh này không thèm nhọc công chạy trốn đâu cho xa. Nó chui xuyên qua hàng rào vào đúng cái góc bị chắn giữa tổ mối và thân cây, và ở đó, sau khi biết là đầu và hai sườn đã được an toàn, nó cứ đứng chờ xem sự tình sẽ diễn biến ra sao, đồng thời sẵn sàng đẩy lùi cuộc tấn công khi cần bằng những cú đá hậu rất dũng mãnh. Nhưng rõ ràng là lũ sư tử không trông thấy nó, nên khi mặt trời lên và nỗi nguy hiểm qua đi, nó xem là đã tới lúc nên ngả lưng nghỉ ngơi chút đỉnh sau những ấn tượng bi thảm của đêm. 
Đi vòng quanh khu trại, Xtas tìm ra được dấu chân ngựa in hằn trên một chỗ đất mềm. Dấu chânđi về phía rừ ng sau đó ngoặt vào khe núi. Đó là chuyệ n rất hay, vì trong khe núi việc bắt lại lũ ngựa không phải là chuyện khó. Mươi bước chân nữa, em tìm được trong cỏ sợi dây buộc chân mà một con trong số lũ ngựa đã rứt đứt khi chạy trốn. Con này hẳn là đã chạy rất xa, nên tạm thời có thể coi như bị thất lạc. Còn hai con nữa thì Xtas trông thấy sau một tảng đá, nhưng không phải trong lòng khe đá mà ngay trên bờ khe. Một con đang nằm, còn một con đang rứt những cuộng cỏ non màu lục nhạt. Cả hai nom vô cùng mệt nhọc như vừa trải qua một chặng đường dài. Nhữ ng ánh sáng ban ngày đã xua tan sự sợ hãi trong tim chúng, chúng đón chào Xtas bằng một tiếng hí ngắn đầy thân ái. Con ngựa đang nằm vùng đứng dậy, và Xtas thấy rằng cả con này nữa cũng đã thoát khỏi dây buộc chân và may thay, hẳn là nó thà ở lại với bạn hơn chạy tháo thân. 
Xtas để cả hai dưới chân tảng đá và leo lên bờkhe nhìn xem còn có thể đi tiếp theo lòng khe đượchay không. Em thấy rằng, do có độ dốc lớn nên nước đã thoát đi hết và lòng khe gần như khô ráo. Mộtlát sau, em chợt chú ý tới một vật gì trăng trắngmắc vào một dây leo rủ trên vách đá phía đối diện.Hóa ra đó là cái nóc lều bị gió cuốn tới tận đây vàvướng chặt vào cây nên nước không cuốn đi được.Dù sao, mái lều vẫn cho Nen được chỗ trú thân tốt hơn là một túp lều lợp vội bằng cành cây, nên việctìm thấy cái mái lều bị mất này khiến cho Xtas rấtvui sướng. 
Niềm vui của cậu bé còn tăng lên hơn nữa, khi từ một tảng đá thấp ẩn kín phía sau và cao hơn cácdây leo một ít, con chó Xaba nhảy xổ ra, mồm cắn một con thú gì đấy, mõm và đuôi của con thú này vắt vẻo hai bên mõm con chó. Trong nháy mắt con chó khổng lồ đã trèo lên cao và đặt dưới chân Xtas một con linh cẩu lông vằn với cái lưng vỡ nát vàmột chân bị gặm dở, rồi ve vẩy đuôi và vui vẻ sủa váng lên, như muốn nói: “Tôi xin thừa nhận là đã hèn nhát trước các ông sư tử, quả có như vậy, vì các người cũng phải leo lên cây như lũ chim pentáccakia mà! Nhưng hãy trông đây, tôi cũng không đến nỗi để đêm qua bị phí hoài đâu!”. 
Và nó tự hào đến nỗi Xtas phải vất vả mới bảonó bỏ con vật hôi thối lại chỗ đó chứ không mang về làm quà cho Nen. 
Khi cả hai quay về, một đống lửa lớn đã được đốt lên trong trại, nồi nước đang sôi sùng sục, trong đó đang ninh ngô, hai con chim pentacca và những miếng thịt thăn linh dương. Nen đã được thay quần áo khô, nhưng trông cô bé nhợt nhạt và thảm thương đến nỗi Xtas lo sợ cầm tay cô để xem xem liệu cô bé có bị sốt hay không rồi hỏi: 
- Nen, em làm sao thế? 
- Không sao cả, anh Xtas, em chỉ buồn ngủ thôi. 
- Hẳn rồi. Sau một đêm như thế kia mà. ƠnChúa, tay em vẫn mát. Ôi, thật là một đêm ra đêm! Tất nhiên là em buồn ngủ, cả anh cũ ng thế! Nhưng em có cảm thấy ốm không? 
- Đầu em hơi nhức. Xtas đặt tay lên trán cô bé. Trán Nen cũng lạnh như tay, nhưng chính đó lại là biểu hiệ n của sự kiệt sức và suy yếu, cậu bé thở dài bảo: 
- Em hãy ăn một chút gì nong nóng, rồi sau đóđi nằm ngay và phải ngủ cho tới chiều. Hôm nay ít nhất thì thời tiết cũng rất đẹp và sẽ không như hôm qua đâu. 
Nen nhìn em vẻ sợ hãi. 
- Nhưng ta sẽ không trú đêm lại đây chứ anh? 
- Không, vì có mấy cái xác ngựa bị gặm dở nằm đây; chúng ta sẽ chọn một cái cây nào khác, hoặc sẽ đi vào khe núi; ở đó ta sẽ dựng hàng rào, một cái hàng rào mà thế giới chưa từng được biết đến. Em sẽ được ngủ yên giấc như hồi ở Port Xaiđơ vậy. 
Nhưng cô bé đã chắp tay và ứa lệ xin hãy đi tiếp, vì ở cái chỗ kinh khủng này, cô không sao chợp mắt nổi và sẽ ốm mất thôi. Và cô bé vừa xin, vừa nhìn vào mắt em mà lặp đi lặp lại: “Được không, anh Xtas, được không anh?” khiến cậu bé có thể đồng ý với tất cả mọi chuyện. 
- Thế thì chúng ta hãy đi theo khe núi, - em nói - vì trong khe có bóng mát. Nhưng em phải hứa với anh là nếu như em mệt hay kiệt sức thì phải bảo anh ngay nhé. 
- Em sẽ không thiếu sức đâu, không thiếu đâu! Anh cứ buộc em vào yên và dọc đường em có thể ngủ say thôi mà. 
- Không. Anh sẽ cưỡi cùng một con ngựa với em và sẽ giữ lấy em. Cali và Mêa sẽ cưỡi con ngựa kia, còn con lừa sẽ chở cái lều. 
- Hay lắm! Hay lắm! 
- Ngay sau bữa sáng em phải ngủ đi một lát. Dù sao chúng mình cũng không thể lên đường trước buổi trưa, bởi còn nhiều việc lắm. Phải bắt lũ ngựa lại, cuốn lều, làm lại các gùi hàng. Chúng mình phải để bớt lại một số đồ đạc, vì chỉ còn vẻn vẹn có hai con ngựa thôi. Ít ra cũng phải mất vài tiếng đồng hồ đấy, em cứ ngủ đi một chút để thêm sức. Hôm nay trời nóng, nhưng dưới tán cây không thiếu bóng mát đâu. 
- Thế còn anh, Mêa và Cali? Em rất buồn là chỉ mỗi mình em được ngủ trong khi tất cả phải lao động mệt nhoài... 
- Bọn anh rồi cũng có thì giờ. Đừng lo cho anh. Hồi ở Port Xaiđơ, vào kì thi, anh thườ ng không ngủ hàng đêm liền, thậm chí đến cha anh cũng chẳng biết chuyện đó đâu... Bọn bạn anh cũng không ngủ. Nhưng đó là cánh nam giới, chứ không phải một con ruồi nhỏ bé như em. Em không biết hôm nay trông em ra sao đâu... cứ như bằng thủy tinh ấy! Chỉ còn lại có đôi mắt với mái tóc thôi, còn mặt thì chẳng thấy đâu cả. 
Xtas nói đùa, nhưng trong lòng thầm lo sợ, vì trong ánh sáng ban ngày khuôn mặt Nen rõ ràng là mặt của một người ốm, và lần đầu tiên em hiểu rõ, nếu cứ như thế này tiếp diễn mãi thì đứa trẻ tội nghiệp kia không những chỉ có thế mà nhất định phải chết. 
Nghĩ tới điều đó hai chân em run lên, vì em bỗng cảm thấy, nếu cô bé chết, thì em cũng chẳng còn thiết sống làm gì nữa, chẳng còn quay về Port Xaiđơ làm gì nữa. 
“Vì lúc ấy mình biết làm gì nữa cơ chứ?” - Em nghĩ thầm. 
Em quay mặt đi một lúc để Nen không nhận thấy tình thương và sự lo sợ trong ánh mắt em, rồi sau đó em bước tới chỗ những thứ đồ đạc đặt dưới gốc cây, bỏ tấm vải bọc hộp đựng đạn, mở hộp đạn và bắt đầu tìm kiếm cái gì trong đó. 
Trong hộp ấy, em cất viên thuốc kí ninh cuối cùng trong một cái lọ thủy tinh nhỏ và giữ gìn viên thuốc như giữ gìn con ngươi mắt, đó là viên thuốc dùng cho “giờ phút đen tối”, nghĩa là trường hợp Nen bị sốt rét. Nhưng giờ đây em gần như chắc chắn rằng, sau một đêm như thế, cơn sốt đầu tiên sẽ tới ngay, nên em quyết định phải phòng ngừa cơn sốt ấy. Lòng em nặng nề khi quyết định như thế, vì nghĩ tới những gì sẽ xảy ra trong tương lai, và giá như không phải là đàn ông đồng thời là thủ lĩnh của cả đoàn - những người không được khóc em đã khóc òa lên vì viên thuốc cuối cùng này rồi. 
Muốn che giấu xúc động em bèn lấy vẻ mặt cực kì nghiêm nghị quay lại phía cô bé bảo: 
- Nen, trước khi ăn, em hãy uống hết chỗ kí ninh còn lại nhé. 
Cô lại hỏi: 
- Thế nếu anh bị sốt rét, thì sao? 
- Thì anh sẽ run chứ sao? Uống đi, anh bảo phải nghe! 
Cô bé uống, không phản đối nữa, vì kể từ khi em giết mấy tên Xuđan, cô bé đâm ra hơi sờ sợ em, mặc dù em đã hết sức cố gắng chăm sóc cô bé và biểu lộ lòng tốt với cô. Thế rồi bọn trẻ ngồi ăn sáng; sau một đêm mệt mỏi, xúp thịt chim pentácca nóng khiến chúng rấ t ngon miệng. Ngay sau bữa ăn, Nen thiếp đi và ngủ được mấy tiếng đồng hồ. Trong thời gian đó, Xtas, Cali và Mêa chuẩn bị lên đường, mang tấm nóc lều về và chôn lại dưới gốc cây nabăc những thứ mà chúng không thể mang theo. Trong khi làm việc chúng buồn ngủ díp mắt lại, nhưng Xtas chỉ cho phép mình và hai bạn chợp mắt những giấc ngắn vì sợ rằng mệt quá sẽ ngủ thiếp đi. 
Chừng hai giờ chiều chúng lên đường. Xtas giữ Nen ngồi phía trước, Cali cùng Mêa trên con ngựa thứ hai. Nhưng chúng không đi ngay vào khe núi mà đi dọc theo bờ khe và rừng. Rừng non chỉ trong một đêm mưa đã mọc lên tươi tốt trông thấy, song nền đất hãy còn mang màu đen và những dấu vết của lửa. Dễ dàng đoán ra: hoặc là Xmainơ cùng với toán quân của y đã đi ngang qua đây, hoặc là đám cháy mà gió mang từ xa lại đã tràn qua khu rừ ng khô nỏ cho tới lúc gặp khu rừng ẩm ướt này chắn ngang, nó chỉ tạo thành một vệt không rộng lắm giữa rừng và khe núi để lan tiếp. Xtas muốn kiểm tra xem trên vệt chá y này có dấu vết gì của những lần hạ trại của Xmainơ, hoặc vết móng ngựa hay không, và em hài lòng thấy rằng không hề có dấu vết gì cả. Cali, người vốn thành thạo chuyện đó, khẳng định chắc chắn rằng lửa này do gió mang tới và từ đó đến nay đã hơn mươi ngày rồi. 
- Điều đó chứng minh là - Xtas nhận xét, - gã Xmainơ và quân lính của gã hiện đang ở đâu chẳng ai biết, và dù sao đi nữa mình cũng sẽ không rơi vào tay chúng. 
Rồi cùng với Nen, Xtas bắt đầu tò mò ngắm nhìn các loài cây cỏ, từ trước tới nay chúng chưa khi nào được đi sát gần một khu rừng nhiệt đới đến thế. 
Lúc này chúng đang đi theo bìa rừng để lấy bóng mát của rừng. Đất ở đây ẩm ướt và mềm mại, mọcđầy cỏ màu xanh đậm, rêu và dương xỉ. Đây đó có những thân cây mục ruỗng màu xám, phủ đầy những cây lan củ, trông giống như một tấm thảm thêu, với những bông hoa sặc sỡ như những cánh bướm và một cái núm cũng sặc sỡ giữa đài hoa. Nơi nào ánh nắng mặt trời chiếu tới, ở đó mặt đất lại vàng rực bởi những loài lan kì lạ khác, nhỏ bé, màu vàng, trong đó hai hoa vươn lên cao, cạnh cánh thứ ba, trông giống như đầu một loài nào đó có những cái tai to dài nhọn hoắt. Một đôi nơi rừng được trang điểm bởi những bụi nhài dại, kết thành những tràng hoa gồm những dây mỏng mảnh nở hoa hồng hồng. Các khe và hõm cạn mọc dầy đặc cây dương xỉ thành một búi rậm không thể nào vượt qua nổi: cây thì thấp và xòe rộng, cây lại cao, thân cuốn thành cuộn, vươn mã i tới sát tận những cành cây thấp và xòe ra thành một cái đài màu xanh dịu dàng. Trong sâu, rừng không chỉ thuần một loại cây: có cây chà là, cọ sợi, cọ xòe quạt, sung Ai Cập, mít, xương khô, những loài cây cúc bạc khổng lồ, cây xiêm gai, cây có lá màu sẫm và sáng lóng lánh, cây lá màu nhạt hoặc màu đỏ như máu, mọc cạnh nhau thân sát thân, cành giao cành, trên đó xòe ra những bông hoa vàng và đỏ sậm, trông như những giá cắm nến. Một vài khoảng rừng hoàn toàn không hề có cây gỗ nào mọc, vì từ dưới đất lên trên cao là những loại dây leo phủ dầy, giằng giữa thân cây này với thân khác, tạo nên những đường dích dắc giống chữ M hay chữ W, trở thành những tràng hoa lá, những tấm rèm nhỏ và lớn. Dây cao su họ trúc đào kết thành hàng ngàn vòng hình rắn lượn hầu như bóp chết nghẹt những cây gỗ và biến chúng thành những kim tự tháp phủ đầy hoa trắng như tuyết. 
Xung quanh những dây leo lớn lại có các dây leo nhỏ hơn quấn quanh và sự chồng chất này quả thực là kinh khủng, tạo nên những bức tường không một con người hay loài vật nào có thể xuyên qua nổi. Chỉ có những chỗ mà voi đã phá thủng với sức của loài vật này thì không gì cản nổi những “bức tường” đó mới thông với rừng sâu, tạo nên những hành lang sâu thẳm và khuất khúc. 
Hoàn toàn không nghe thấy tiếng chim hót, những tiếng chim làm tăng vẻ kiều diễm của nhữngkhu rừ ng thưa châu Âu, ngược lại trên các ngọn cây lại vang lên những tiếng kêu kì lạ nhất, khi thì nghe như tiếng cưa rít, khi như tiếng gõ thùng, khi lại như tiếng cò kêu, như tiếng cọt kẹt của những chiếc cửa cũ kĩ, như tiếng vỗ tay, tiếng mèo kêu meo meo, thậm chí như tiếng trò chuyện to tiếng vàkhích động của con người nữa. Đôi khi, từ trên ngọn cây bay vụt lên những đàn vẹt xám, vẹt xanh, vẹt trắng và hàng đàn chim tucan lông sặc sỡ màu sắc, với những dây cao su đôi khi ẩn hiện - giống như những bóng ma rừng - những con khỉ yếm trắng, cả người đen tuyền trừ cái đuôi trắng và những dải màu trắng cạnh sườn, cùng những dải như thế bao quanh khuôn mặt đen như than. 
Bọn trẻ kinh ngạc nhìn ngắm khu rừng nguyên sinh này, khu rừng rất có thể chưa từng có cặp mắt người da trắng nào được trông thấy. Chốc chốc, con Xaba lại lặn vào rừng, từ trong đó vọng ra tiếng sủa vui vẻ của nó. Liều thuốc kí ninh, bữa ăn sáng vàviệc nghỉ ngơi đã khiến Nen hồ i phục. Khuôn mặt cô bé sinh động hẳn lên và nhuốm phơn phớt những sắc hồng thoang thoảng, đôi mắt nhìn vui hơn. Lát lát cô bé lại hỏi Xtas về tên những loài cây cối hoặcchim chóc, cậu bé trả lời theo sự hiểu biết của cậu. Cuối cùng cô bé nói rằng muốn xuống ngựa để hái thật nhiều hoa. 
Song cậu bé mỉm cười và đáp: 
- Thế thì lũ siaphu sẽ chén thịt em trong nháy mắt. 
- Siaphu là giống gì, anh? Nó còn tệ hơn sư tử kia à? 
- Vừa tệ hơn vừa không tệ bằng. Đó là một loại kiến bọ nhọt rất to. chúng bò đầy trên các cành cây, từ đó, chúng rơi xuống lưng người như một cơn mưa lửa. Nhưng chúng cũng bò cả trên đất nữa. Em cứ thử tụt xuống ngựa và đi vào rừng một tí mà xem, chắc chắ n em sẽ nhẩy cẫng lên và kêu la như một con khỉ con vậy. 
Thậm chí đối với sư tử còn dễ tựvệ hơn. Đôi khi giống kiến này đi thành những dòng khổng lồ và khi đó mọi vật đều phải nhường đường cho chú ng. 
- Nhưng anh trị được chúng nó chứ ? 
- Anh ấy à? Đương nhiên rồi. 
- Trị thế nào cơ? 
- Dùng lửa hoặc nước sôi. 
- Anh khi nào cũng biết cách đối phó, - cô bé nói đầy tin tưởng. 
Nhữ ng lời đó khiến Xtas rất khoái chí, nó bèn đáp lại vẻ tự kiêu nhưng cũng vừa đùa vui: 
- Chỉ cần em khỏe thôi, còn ngoài ra mọi sự có thể tin ở anh. 
- Đầu em hết cả đau rồi đây này. 
- Ơn Chúa, ơn Chúa! 
Vừa trò chuyện như thế, chúng vừa đi hết khu rừng, khu rừng này chỉ giáp với khe núi có một bìa rừng mà thôi. Mặt trời đã lên cao hơn và thiêu đốt gay gắt, vì thời tiết thật là tuyệt diệu và vòm trời không một bóng mây. Lũ ngựa ướt đẫm mồ hôi, còn Nen thì mỗi lúc một phàn nàn về thời tiết nóng nực. Vì thế, Xtas tìm một chỗ thích hợp để rẽ vào khe núi, trong đó, vách đá phía Tây trải bóng mát che kín. Trong khe mát hơn, và nước mưa còn lại trong các chỗ trũng sau cơn mưa rào hôm qua cũng mát mẻ hơn. 
Trên đầu những khách bộ hành trẻ tuổi này, những con chim tucan, với cái đầu đỏ thắm, bộ ngực màu xanh và những chiếc cánh màu vàng rực rỡ cứ bay hoài từ vách đá này sang vách đá khác, nên cậu bé bèn kể cho Nen nghe những điều mình biết về tập quán sinh sống của loài chim này mà cậu đọc được trong sách. 
- Em biết không, cậu nói, - có những con tucan trong kì sinh sản đi tìm những hốc cây, con mái đẻ trứng và nằm ấp, còn con trống thì lấy đất sét bịt kín hốc cây lại, chỉ còn một lỗ đủ trông thấy đầu con mái; cho tới khi những con chim con nở hết, nó mới dùng cái mỏ to tướng của mình phá vỡ lớp đất sét để giải phóng con mái. 
- Thế trong thời gian ấy con chim mái ăn gì? 
- Con trống sẽ nuôi con mái. Nó cứ bay liên tục xung quanh và mang về cho con mái đủ các thứ quả khác nhau. 
- Thế nó có để con mái được ngủ không? - Cô bé hỏi giọng ngái ngủ ? Xtas mỉm cười. 
- Nếu quý bà chim tucan cũng buồn ngủ như em lú c này, đương nhiên là ông chồng cho phép bà ta ngủ thôi. 
Quả tình, trong khe núi mát mẻ, cô bé buồn ngủ không cưỡng nổi, vì từ sáng tới giờ cô bé được nghỉ quá ít. Xtas cũng rất muốn được ngủ theo nhưng nó không thể ngủ vì còn phải giữ cô bé, sợ cô bé bị rơi xuống ngựa, thêm vào đó việc ngồi theo kiểu đàn ông trên cái yên vừa phẳng vừa rộng - cái yên mà ông Hatim cùng với Xeki Tamala đã làm riêng cho cô bé hồi còn ở Phasôđa khiến em rất khó chịu. Tuy thế, cậu bé không dám nhúc nhích và cho ngựa đi thật chậm để khỏi đánh thức cô bé. 
Còn cô bé thì ngả người về phía sau, tựa đầu vào vai Xtas ngủ ngon lành. 
Cô bé thở đều đặn và bình thản đến nỗi Xtas thôi không còn tiếc viên kí ninh cuối cùng nữa. Vừa lắng nghe nhịp thở của cô bé em vừa cảm thấy rằng nỗi nguy của cơn bệnh sốt rét tạm thời bị đẩy lùi, nghĩ mông lung: “Khe núi càng ngày càng dẫn lên cao, thậm chí khá dốc lên nữa. Mỗi lúc chúng ta lên một cao và khí hậu càng trở nên khô ráo. Chỉ cần kiếm được một chỗ cao ráo, kín đáo, bên cạnh một con nước xiết để nghỉ ngơi, cho cô bé nghỉ mấy tuần, thậm chí có thể nghỉ qua cả mùa mưa xuân maxica cũng được. 
Nhiều đứa bé gái hẳn là sẽ không chịu đựng nổi một phần mười những gian khổ như thế, cô bé cần phải được nghỉ ngơi. Sau cái đêm như hôm qua, đứa khác hẳn đã bị lên cơn sốt ngay lập tức, còncô bé thì lại ngủ say chưa kìa. Ơn Chúa!”. 
Những ý nghĩ ấy khiến em rất vui và nhìn xuống mái đầu của Nen đang tựa vào ngực mình, em tự nhủ thầm, vừa vui vui pha đôi chút ngạc nhiên: 
“Điều đặc biệt là mình lại yêu mến cái con ruồi nhỏ này đến thế kia chứ! Quả thực là từ trước đến nay bao giờ mình cũng vẫn mến cô bé, nhưng giờ đây thì ngày càng yêu mến nó hơn”. 
Và vì không biết lí giải cho bản thân thế nào về những tình cảm ấy, em rơi vào giả thuyết sau: 
“Chắc hẳn là vì cả hai đứa đã cùng trải qua biết bao chuyện mà cô bé thì lại thuộc nhiệm vụ mình phải chăm lo”. 
Trong lúc ấy, tay phải cậu bé rất thận trọng giữ lấy thắt lưng của “con ruồi nhỏ” để nó khỏi tụt xuống khỏi yên và khỏi bị dập mất mũi. Bọn trẻ nối nhau đi trong yên lặng, chỉ riêng mình Cali khe khẽ ngâm nga những lời ca ngợi Xtas: 
- Ông lớn giết chết Ghebơrơ, giết sư tử, giết cả trâu rừng. 
Yah! Ông lớn còn sẽ giết nhiều sư tử nữa. Yah! Nhiều nhiều thịt! 
Yah! Yah!... 
- Này Cali, - Xtas khẽ hỏi, - người Vahima có săn sử tử không? 
- Người Vahima sợ sư tử, nhưng người Vahima đào những cái hố sâu, và nếu như ban đêm sư tử sụp xuống hố đó, thì người Vahima bèn cất tiếng cười. 
- Khi đó các cậu sẽ làm gì? 
- Người Vahima phóng thật nhiều ngọn lao, đến khi sư tử trông giống như con nhím. Khi đó họ kéo nó lên khỏi hố và ăn thịt. 
Thịt sư tử ngon lắm. 
Và theo tập quán của mình, nó lại xoa xoa bụng. 
Cách săn thú này không thật khiến Xtas thú vị nên em bắt đầu hỏi thêm có những loài thú nào có trên lãnh thổ của người Vahima, và chúng trò chuyện với nhau về những con linh dương, đà điểu, hươu cao cổ và lũ tê giác cho đến khi chúng thoảng nghe thấy tiếng thác nước reo. 
- Cái gì thế? Xtas kêu lên. - Có phải trước mặt chúng ta là một con sông và có thác nước chăng? Cali gật đầu ra hiệu rằng chắc là thế đấy. Chúng bước những bước dài hơn và lắng nghe tiếng nước réo, tiếng nước mỗi lúc một rõ hơn. 
- Thác thật rồi! - Xtas thú vị thốt lên. 
Song, vừa vượt qua một rồi hai chỗ ngoặt thì một chướng ngại vật không thể vượt qua nổi đã chắn ngang đường đi của chúng. 
Lúc này, Nen - vốn được bước chân ngựa ru ngủ - cũng tỉnh dậy. 
- Ta đã tới chỗ trú đêm rồi ư, anh? - Cô bé hỏi. 
- Chưa, nhưng em nhìn này! - Xtas đáp - Một khối đá đã bịt kín khe núi. 
- Làm sao bây giờ? 
- Không thể đi len qua bên cạnh được vì quá chật, nên có lẽ phải quay ngược lại một đoạn, trèo lên bờ khe mà đi vòng qua thôi. 
Song cũng còn chừng hai tiếng đồng hồ nữa mới tối nên chúng ta hẵng còn thời giờ. Cứ để cho lũ ngựa nghỉ xả hơi chút đã. Em có nghe tiếng thác không? 
- Có. 
- Chúng mình sẽ dừng lại nghỉ đêm bên cái thác này. 
Rồi quay sang Cali, cậu bé bảo nó leo lên bờ khe núi trông xem ở đoạn tiếp theo đáy khe có bị những chướng ngại vật tương tự chắn ngang hay không, còn tự mình, cậu chăm chú quan sát khối đá, và lát sau reo lên: 
- Nó bị tách ra và lăn xuống cách đây chưa lâuđâu. Em thấy không Nen, vệt tách này này? Nhìn này, nó hãy cò n mới lắm. Trên mặt đá không hề có một chút rêu cỏ nào. Anh hiểu ra rồi, anh hiểu rồi! 
Cậu bé đưa tay trỏ cho Nen thấy một cái cây bao báp mọc trên bờ khe, một cái rễ to tướng của cây này rủ lơ lửng trên vách đá dọc theo vết đứt gãy. 
- Chính cái rễ kia kìa đã chọc sâu vào giữa vách đá và tảng đá này cứ lớn lên mãi và cuối cùng khiến cho khối đá tách ra. 
Chuyện này thật thú vị, vì đá vốn cứng hơn gỗ, nhưng anh biết rằng, trong núi đấy là chuyện thường tình. Sau đó, chỉ cần bất cứ một cái gì chạm vào tảng đá đang lắt leo ấy là nó liền tách hẳn ra. 
- Nhưng cái gì có thể tách hẳn ra. 
- Cũng khó mà nói được. Có thể là cơn dông hômqua. 
Chính vào lúc đó, con chó Xaba - lúc trước vẫn chạy phía sau bọn trẻ - bỗng chạy tới, đứng dừng lại đột ngột như bị ai cầm lôi lại, đánh hơi, rồi ép người len qua cái lối đi chật hẹp giữa vách đá và tảng đá bị tách ra, nhưng ngay lập tức nó lùi ngay trở lại, lông xù cả lên. 
Xtas xuống ngựa để xem cái gì đã khiến con chó sợ hãi đến thế. 
- Anh Xtas, đừng đi vào đó, - Nen khẩn khoản, - có thể có sư tử ở trong ấy đấy! 
Cậu bé, vừa tự phụ, vừa rất căm bọn sư tử sau đêm hôm trước, bèn nói: 
- Sư tử ban ngày thì mùi gì. 
Nhưng trước khi nó kịp bước lại gần khe hở thì từ trên cao đã vang lên tiếng kêu của Cali: 
- Ông lớn! Ông lớn ơi! 
- Cái gì thế? - Xtas hỏi. 
Trong nháy mắt cậu bé da đen đã tụt theo dây leo xuống. Cứ trông nét mặt cũng có thể đoán ra là nó mang lại một tin gì đó quan trọng. 
- Voi! - Nó kêu lên - Voi à? 
- Vâng! - Cậu bé da đen vừa đáp vừa vung vung tay chỉ trỏ. - Kia là con nước gầm, còn đây là tảngđá. Voi không thể qua được. 
Ông lớn giết voi để Cali ăn thịt, ôi, ăn thịt, ăn thịt! 
Ý nghĩ ấy khiến nó vui sướng đến nỗi nó bắt đầu nhảy nhót, vỗ tay đen đét vào đầu gối và cười như điên dại, mắt đảo lia lịa, phô hàm răng trắng nhởn. 
Xtas không hiểu ngay ra vì sao Cali lại bảo rằng voi không thể thoát ra khỏi khe núi, và muốn xem xem có chuyện gì xảy ra, cậu bèn lên ngựa, giao Nen lại cho Mêa trông, để khi cần có thể nổ súng mà không bận tay, ra lệnh cho Cali ngồi sau lưng, rồi cả bọn quay ngược trở lại tìm chỗ có thể leo lên bờ khe. Dọc đường Xtas hỏi lại xem con voi làm sao lại rơi vào chỗ mà nó đang mắc kẹt, và qua những câu trả lời của Cali em ít nhiều hiểu được chuyện xảy ra thế nào. 
Hẳn là con voi đã chạy theo khe núi trong một vụ cháy rừng nào đó để tránh lửa. Dọc đường nó động mạnh vào một khối đá cheo leo trên lưng chừng khe khiến cho khối đá lăn xuống chặn mất đường lui của nó. Sau đó, nó chạy tới bờ vực thẳm, nơi con sông đổ xuống, và thế là nó bị giam không lối thoát. 
Một lát sau, những người bộ hành trẻ tuổi tìm thấy lối lên nhưng khá dốc nên chúng phải xuống ngựa và dắt ngựa theo sau. 
Và vì rằng, theo lời cậu bé da đen thì sông rất gần đấy chúng bèn tiếp tục đi bộ tới đấy. Cuối cùng tới một mũi đất, một phía bị giới hạn bởi sông, phía kia bởi khe núi, và trông xuống phía dưới, chúng nhìn thấy một con voi đang ở trong thung lũng. 
Con vật khổng lồ đang nằm phủ phục, và Xtas ngạc nhiên xiết bao, vì khi trông thấy chúng, con voi không hề nhổm dậy, chỉ tới khi con Xaba len ra sát tận mép vực sủa lên dai dẳng, thì voi ta mới động đậy hai cái tai khổng lồ một chút và giơ vòi lên, nhưng rồi lại thả xuống ngay. 
Tay cầm tay, bọn trẻ im lặng ngắm con voi cho đến lúc Cali phá vỡ sự im lặng đó: 
- Nó đang chết đói đây! - Cậu bé kêu lên. 
Quả thực, con voi gầy đến nỗi sống lưng nó nhô cả lên như một chiếc lược, hai sườn nó hõm sâu vào, và mặc dù có da dày, song trông rõ dưới da là những chiếc xương sườn. Dễ dàng có thể đoán ra rằng, nó không đứng dậy vì không còn đủ sức nữa. 
Khe núi, vốn khá rộng ở chỗ đổ ra, đã biến thành một cái lòng thung hai đầu bị chặn bởi hai vách đá dựng đứng, lòng thung mọc mấy cây gỗ. Những cây này đều gãy vỏ, vỏ chúng bị lột từng mảng, trên cành không còn một chiếc lá nào. Những dây leo trên vách đá cũng bị lôi tuột xuống và bị chén sạch, trong thung, cỏ bị nhổ đến cuộng cuối cùng. 
Nhìn kĩ địa thế, Xtas chia xẻ với Nen những điều nhận định của mình, song dưới ấn tượng về cái chết không thể tránh khỏi của con vật khổng lồ, em nói rất khẽ, dường như sợ làm xáo động những giây sống cuối cùng của con vật.
- Phải, nó đang chết đói. Nó ở đây phải đến hai tuần rồi, nghĩa là kể từ khi đám cháy thiêu trụi khu rừng cũ. Nó đã ăn hết sạch mọi thứ có thể ăn được, còn giờ đây thì nó đang ngắc ngoải, mà đáng buồn hơn vì phía trên nà y lại có mít mọc, cùng những cây xiêm gai sum xuê, nó trông thấy đấy mà không sao có thể với tới được. 
Bọn trẻ nhìn con vật một hồi lâu nữa, con voi cũng đưa mắt - đôi mắt nhỏ bé đang tắt dần - nhìn bọn trẻ, và một thứ tiếng gì đó gần giống như tiếng gừ gừ thoát ra từ cổ họng nó. 
- Quả tình - cậu bé nói, - tốt hơn cả là nên rút ngắn cho nó bớt nỗi đau khổ này đi thôi. 
Nói thế xong, em nâng khẩ u súng lên ngang mặt, nhưng Nen đã túm lấy cái áo ngoài của em và tì chặt hai chân nhỏ bé của mình, cô bé dùng hết sức kéo em ra xa bờ khe núi. 
- Anh Xtas, đừng làm thế! Anh Xtas, chúng mình cho nó ăn đi, anh! Trông nó tội nghiệp thế kia cơ mà! Em không muốn anh giết nó, không muốn, không muốn! 
Giậm giậm hai bàn chân, cô bé cứ co kéo mãi, còn cậu bé thì kinh ngạc nhìn cô bé, nhưng khi trông thấy đôi mắt đẫm lệ của cô bé, cậu liền bảo: 
- Nhưng mà Nen... 
- Em không muốn! Không cho giết nó! Em sẽ bị lên cơn sốt ngay lập tức nếu anh giết chết nó!... 
Chỉ cần có một lời dọa ấy thôi cũng khiến cho Xtas từ bỏ ý định giết chóc của mình - đối với riêng con voi ở trước mặt bọn trẻ cũng như đối với tất cả những con voi khác trên thế giới. Cậu im lặng một lúc không biết nên nói với cô bé thế nào, sau đó bảo: 
- Thôi, được rồi, được rồi!... Anh bảo em, Nen, được rồi! Bỏ anh ra nào! 
Nen liền ôm chặt lấy cậu bé và một ánh cười thoáng qua trong đôi mắt rưng rưng của cô. Bây giờ cô bé chỉ lo sao cho con voi có cái ăn thật nhanh. Cali và Mêa ngạc nhiên vô cùng khi được biết rằng, không những “ông lớn” bvana kubva không giết con voi, mà hai đứa cò n phải nhanh chóng hái mít và chặt lá cây xiêm gai cùng đủ mọi loại cây cỏ và lá lủng khác, thật nhiều, càng nhiều càng tốt, cho con voi ăn. Thanh gươm Xuđan của tên Ghebơrơ thật có ích đối với Cali trong công việc ấy, nhưng không muốn chờ cho công việc này kết thúc, mà ngay khi quả mít đầu tiên vừa rơi xuống, cô bé liền ôm lấy trong vòng tay và mang tới bên bờ khe núi, vừa mang vừa lặp đi lặp lại láu táu, dường như sợ ai đó sẽ không chịu giao việc này cho cô: 
- Em, em, em làm cơ! 
Xtas hoàn toàn không có ý định cướp mất của cô bé niềm sung sướng này, cậu chỉ lo là do quá nhiệt tình cô bé có thể lao cả bản thân mình xuống cùng với quả mít chăng, nên cậu bèn tóm lấy thắt lưng cô bé và kêu lên: 
- Ném! 
Quả mít to tướng lăn theo sườn dốc rơi xuống chân con voi, chỉ trong nháy mắt, con vật đã vươn vòi túm lấy quả mít, rồi cuộn vòi lại như muốn đặt quả mít xuống dưới cổ - và bọn trẻ chỉ kịp nhìn thấy quả mít đến thế là hết. 
- Nó nuốt chửng rồi! - Nen vui sướng kêu lên. 
- Anh cũng đoán thế mà ! - Xtas vừa cười vừa đáp. 
Còn con voi thì vươn vòi về phía nó như muốn xin thêm và cất giọng trầm hùng kêu lên: 
- Hrrum! 
- Nó muốn xin nữa đấy! 
- Anh cũng đoán thế ! - Xtas lặp lại. 
Quả mít thứ hai đi theo vết quả thứ nhất và cũng mất hút trong nháy mắt như quả trước, tiếp đó là quả thứ ba, thứ tư, thứ mười rồi sau đó từng chùm ngọn cây xiêm gai, từng bó cỏ và những bó lá lớn bắt đầu tới tấp bay xuống. Nen không để cho ai thay thế, khi tay đã quá mỏi vì công việc, cô bé dùng chân đẩy xuống mỗi lúc một nhiều thức ăn mới, còn voi ta thì cứ chén tuốt, thỉnh thoảng lại vươn cái vòi lên kêu một tiếng “hrrum” ra dấu đòi nhiều thêm nữa, và theo Nen thì đó là nó nói “cảm ơn” Cuối cùng, Cali và Mêa mệt nhoài vì việc tiếp tế lương thực này, công việc mà chúng làm rất nhiệt tình nhưng với hi vọng rằng “ông lớn” trước tiên muốn vỗ béo cho voi rồi sau đó mới giết thịt. 
Mãi sau, “ông lớn” mới ra lệnh cho chú ng ngừng việc vì mặt trời đã xuống quá thấp rồi và đã tới lúc phải dựng hàng rào gai. May thay, việc đó không khó khăn gì lắm, vì hai cạnh của doi đất hình tam giác là những phía không thể tấn công được, chỉ cần chặn hàng rào ở cạnh thứ ba mà thôi. Mà cây xiêm gai với những chiếc gai ác hiểm thì lại không thiếu. 
Nen không rời khỏi khe núi một bước. Ngồi xổm trên bờ khe, cô bé thông báo từ xa cho Xtas biết con voi đang làm gì, và chốc chốc giọng thanh thanh của cô bé lại vang lên: 
- Nó đang dùng vòi sờ chung quanh mình! 
Hoặc là: 
- Nó vẫy tai. Cái tai nó to chưa kìa! 
Rồi sau nữa: 
- Anh Xtas! Anh Xtas! Nó đứng dậy rồi này! Ối! 
Xtas nhanh nhẹn lao tới nắm chặt lấy tay Nen. Quả thực con voi đã đứng dậy và mãi tới lúc này bọn trẻ mới có thể thấy hết được sự đồ sộ của nó. Trước kia, chúng nó đã mấy lần được trông thấynhững con voi to lớn được chở từ Ấn Độ sang châuÂu qua kênh Xuê, nhưng không có con voi nào có thể sánh được với con vật khổng lồ này, con vật trông như một khối đá màu khó tả đi trên bốn chân. Nó khác những con voi khác bởi cặp ngà phi thường, dài tới năm bộ hoặc hơn nữa, và đôi tai, mà như Nen lưu ý - trông thật là thần thoại. Hai chân trước của nó cao hơn nhưng lại khá mảnh khảnh, hẳn là do nó vừa phải trải qua một cuộc nhịn ăn nhiều ngày ròng rã. 
- Trông nhỏ bé chưa kìa! - Xtas kêu lên - Nếu nó vươn người lên và rướn vòi thật lực thì nó có thể tóm được chân em đấy. 
Nhưng “chàng” khổng lồ không hề nghĩ tới việc leo lên hay tóm lấy chân ai cả. Bằng bước đi chuệnh choạng nó bước tới gần họng khe núi nhìn một lúc xuống vực, nơi nước đang sủi lên sôi sục rồi quay trở lại vách đá nằm gần thác nước hơn, đưa vòi nhúng xuống nước thật sâu và bắt đầu uống. 
- May cho nó - Xtas bảo - là vòi có thể chạm tới nước, nếu không nó đã chết rồi. Con voi uống nước lâu lắm, đến nỗi cô bé phát lo. 
- Anh Xtas này, nó uống thế có hại gì không anh? - Cô bé hỏi. 
- Anh không rõ, - cậu bé cười cười đáp lại, nhưng nếu em đã cưu mang nó thì em phải bảo nó đi chứ. 
Thế là Nen cúi mình xuống bờ vự c gào lên: 
- Thôi đi, voi thân yêu ơi, đủ rồi đấy! 
Và “chàng” voi thân yêu, dường như hiểu cô bé muốn gì, liền thôi uống và bắt đầu dùng vòi phun nước lên mình, đầu tiên là chân, sau tới lưng rồi hai bên sườn. 
Lúc đó trời đã tối hẳn, Xtas bèn đưa cô bé vào trong hàng rào, nơi bữa tối đang chờ hai đứa. 
Cả hai rất vui sướng, Nen vui vì đã cứ u con voi thoát khỏi chết, còn Xtas vui vì nhìn thấy đôi mắt long lanh như hai vì sao và khuôn mặt hớn hở của cô bé, khuôn mặt trông tươi tỉnh và khỏe khoắn nhất kể từ khi rời khỏi Kháctum. Thêm vào đó, cậu bé còn hài lòng vì tự cho phép mình một đêm ngủ thật ngon và thật yên. 
Mũi đất có hai phía hoàn toàn khó xâm phạm tới đã tránh cho bọn trẻ khỏi bị tấn công còn phía thứ ba thì Cali và Mêa đã dựng một bức tường cao bằng những cành xiêm gai đầy gai góc và những cây lạc tiên, khiến không một loài thú dữ nào có thể vượt qua nổi. 
Thêm vào đó, trời lại rất đẹp, sau lúc mặt trời lặn, bầu trời trải đầy sao. Thật dễ chịu khi được hít thở bầu không khí man mát do có thác nước kề bên, làm không khí thấm đượm hơi rừng và mù i những cành cây tươi vừa bị chặt. 
“Con ruồi con này sẽ không bị sốt rét đâu!” -Xtas vui sướng nghĩ thầm. 
Rồi bọn trẻ bắt đầu trò chuyện về con voi, vì Nen không thể nói chuyện gì khác cả, cô bé không ngớt lời ca ngợi tầm vóc của nó, cũng như kích thước của cái vòi và cặp ngà, những thứ nà y quả thự c là khổng lồ. Cuối cùng cô bé hỏi: 
- Anh Xtas nhỉ, đúng là nó thông minh ghê, phải không anh? 
- Như vua Xalômông vậy! - Xtas đáp. - Nhưng tại sao em lại bảo thế? 
- Vì em vừa mới bảo nó đừng uống nước nữa thế là nó vâng lời em ngay. 
- Nếu như trước đó nó không học tiếng Anh mà lại hiểu được, thì rõ ràng nó là con vật tuyệt diệu rồi. 
Nen hiểu là Xtas muốn đùa liền xì với anh như một chú mèo rồi bảo: 
- Anh muốn nói thế nào thì nói, nhưng em tin chắc là nó rất thông minh và sẽ thuần ngay thôi. 
- Không biết nó có thuần ngay hay không, nhưng chắc là thuần được. Voi Phi châu hoang dã hơn voi Á châu nhưng anh cho rằng tướng Haniban đã từng sử dụng voi Phi châu. 
- Haniban là ai, anh?Xtas nhìn em vẻ khoan dung nhưng thương hại: 
- Dĩ nhiên, - cậu nói, - ở vào tuổi em thì chưa biết tới những chuyện như thế. Haniban là một tướng tài của người Cáctagin, người đã sử dụng voi trong cuộc chiến đấu chống quân La Mã, và vì xứ Cáctagin thuộc Phi châu nên chắc ông ta phải sử dụng voi Phi châu... 
Một tiếng voi rống dữ dội làm gián đoạn câu chuyện của chúng, con voi đã ăn uống đẫy bắt đầu rống lên, không rõ vì vui sướng hay vì buồn nhớ đến một sự tự do hoàn toàn hơn. Xaba bật dậy và bắt đầu sủa vang còn Xtas nói: 
- Em sướng nhé. Bây giờ nó mới gọi bạn bè đến. Chúng ta sẽ sướng tỉnh người nếu như cả đàn cả lũ chúng nó kéo tới! 
- Nó sẽ bảo những con voi khác rằng chúng mình đã đối xử tốt với nó! - Nen vội bảo. 
Song bản thân Xtas cũng không lo lắng thật sự vì em tính rằng nếu như cả đàn voi có kéo tới thật đi nữa thì ánh lửa cũng sẽ khiến chúng phải sợ. Em bèn mỉm cười ương bướng và bảo: 
- Được rồi, được rồi! Nhưng nếu như lũ voi mà xuất hiện thì em chẳng khi nào khóc vì sợ đâu, phải không, có điều là mắt em sẽ lại đổ mồ hôi như hai lần trước cho mà xem! 
Rồi cậu bắt đầu nhại cô bé: 
“Em có khóc đâu, mắt em đổ mồ hôi đấy thôi...” Nhìn thấy nét mặt vui vẻ của em, Nen đoán ra là không có nỗi nguy hiểm nào đe dọa. 
- Khi nào chúng mình thuần được nó, - cô bé nói, - thì mắt em sẽ không đổ mồ hôi nữa đâu, dù cho cả mười con sư tử cùng gầm lên một lúc. 
- Tại sao? 
- Vì nó sẽ bảo vệ chúng mình. 
Xtas bảo con Xaba im vì cho tới lúc này con chó vẫn không ngừng đấu khẩ u với con voi, sau đó em ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 
- Em không nghĩ tới một điều, Nen ạ, chúng mình có dừng lại đây mãi mãi đâu cơ chứ, chúng mình sẽ đi tiếp cơ mà... Anh không bảo là phải đi ngay... Chúng mình sẽ ở lại đây một thời gian: chỗ này đẹp và lành, anh định sẽ ở lại đây... có thể là một tuần, có thể là hai, vì em cũng như tất cả chúng mình còn nuôi nấng con voi, mặc dù đó là một việc nặng nhọc đấy. Nhưng nó bị giam và chúng ta đâu có thể đưa nó đi theo được. Còn sau này thì sao? Chúng mình ra đi, còn nó ở lại, nó sẽ lại bị khổ sở vì đói cho tới khi chết. 
Khi đó chúng mình sẽ càng thương tiếc nó nhiều hơn... 
Nen rất buồn, cô bé ngồi thừ ra một lúc lâu, không biết nói gì để đáp lại những lời lưu ý rất đúng đắn kia, nhưng một lát sau, cô bé hất mớ tóc xõa xuống mắt, đưa cặp mắt đầy tin cậy nhìn cậu bé: 
- Em biết, cô bé nói, nếu anh muốn, anh có thể giải thoát nó ra khỏi khe núi. 
- Anh á? 
Cô bé chìa một ngón tay ra chạm và o tay Xtas nhắc lại: 
- Chính anh! 
Người phụ nữ nhỏ xíu và khôn ngoan này hiểu rằng sự tin tưởng của mình khiến cậu bé vui sướng, và từ giây phút ấy trở đi, cậu bắt đầu nghĩ cách giải thoát cho con voi.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 26

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Đêm trôi qua êm ả, mặc dù chân trời phía Nam đầy mây, nhưng buổi sáng lại vẫn đẹp trời. Theo lệnh Xtas, Cali và Mêa sau khi ăn sáng xong liền lo việc thu thập những quả mít, những chùm ngọn xiêm gai, các thứ lá và cỏ tươi cùng những loại thức ăn khác cho con voi rồi mang tới bên bờ khe núi. Vì Nen muốn tự mình cho người bạn mới ăn, nên Xtas bèn đốn cho cô bé một cành vả có chạc như một chiếc nạng gẩy rơm để cô bé dễ đẩy các thứ thức ăn xuống lòng khe hơn. Con voi lên tiếng từ sáng sớm, hẳn là nó đòi ăn, và khi nhìn thấy trên bờ vực hiện ra cái sinh linh màu trắng hôm qua đã cho nó ăn, nó bèn đón chào bằng một thứ tiếng gừ gừ vui sướng và lập tức vươn vòi về phía cô bé. Trong ánh sáng ban mai, bọn trẻ thấy nó càng to lớn hơn so với hôm qua. Nó gầy vô cùng, nhưng trông đã tỉnh táo hơn và đôi mắt nhỏ bé nhanh nhẹn quay về phía Nen trông đã gần như vui vẻ. Thậm chí, Nen còn khẳng định rằng, qua một đêm, cặp chân trước của nó nom đã đầy đặn hơn lên, cô bé bắt đầu hẩy thức ăn một cách nhiệt tình đến nỗi Xtas phải hãm bớt lại, và sau rốt khi cô bé đã thở hổn hển vì mệt, Xtas phải vào thay. Cả hai vui chơi thỏa thuê, đặc biệt, tính khí “đỏng đảnh” của con voi khiến cả hai thú vị hơn cả. Ban đầu nó chén sạch sành sanh mọi thứ gì rơi xuống chân nó, nhưng sau khi đã dịu bớt cơn đói, nó bắt đầu chọn thứ c ăn. Khi vớ phải thứ cỏ không ngon miệng lắm, nó bèn đập vào chân trước rồi dùng vòi tung lên trên cao như muốn bảo: “Các người hãy xơi lấy thứ của ngon này đi xem nào!”. Rồi cuối cùng, sau khi đã hết cơn đói khát, nó bắt đầu ve vẩy đôi tai khổng lồ với vẻ hài lòng. 
- Em chắc rằng, - Nen nói. - nếu bây giờ chúngmình có tụt xuống dưới đó nó cũng không làm gì chúng mình đâu. 
Và cô bé cất tiếng gọi: 
- Voi ơi, voi thân yêu ơi, có phải mày sẽ không làm gì hại chúng tao phải không? 
Khi con voi gật gật cái vòi để đáp lại, cô bé bèn quay sang Xtas: 
- Anh thấy chưa, nó trả lời ừ rồi đấy! 
- Cũng có thể, - Xtas đáp. - Voi là giống vật rất thông minh, và rõ ràng con voi này đã hiểu được là chúng mình cần thiết cho nó. Ai biết đâu đấy, có thể nó còn cảm thấy phần nào biết ơn chúng mình nữa cũng nên. Nhưng tốt nhất là chớ có thử, đặc biệt là Xaba đừng nên thử làm gì, nó sẽ giết con chó ngay đấy. Dần dần rồi chúng nó sẽ quen với nhau cũng nên. 
Cali ngắt quãng những lời ngợi khen của hai đứa dành cho con voi, cậu bé da đen đã thấy được rằng nó sẽ phải lao động cật lực hà ng ngày trong tương lai để nuôi sống con vật khổng lồ, nên tiến lại gần Xtas với nụ cười cầu xin và nói: 
- Ông lớn giết con voi đi, Cali ăn thịt nó, thay vì phải kiếm cỏ và lá cây cho nó. 
Nhưng “ông lớn” đã ở xa ý định giết voi hàng trăm dặm rồi, thêm vào đó vốn tính sôi nổi bèn đáp lại ngay không cần suy nghĩ: 
- Cậu là con lừa! 
May thay, cậu bé quên mất tiếng “con lừa” theo ngôn ngữ Kixvahili là gì nên nói bằng tiếng Anh là donkey. Còn Cali, vốn không hiểu tiếng Anh, nghĩ rằng từ này hẳn là một từ khen ngợi hay khuyến khích gì đó, nên một lát sau hai trẻ nghe thấy tiếng cậu bé da đen đang nhiệt tình nói với Mêa: 
- Mêa có nước da đen và cái óc đen, còn Cali là donkey. 
Rồi nó nói thêm vẻ tự hào: 
- Chính ông lớn bảo rằng Cali là donkey đấy! 
Xtas dặn dò hai đứa phải trông nom cô chủ như con ngươi trong mắt, nếu có chuyện gì phải gọi cậu ngay lập tức, rồi cầm khẩu súng tiến về phía khối đá bị tách ra đang đóng kín khe núi. 
Đến nơi, cậu xem xét tảng đá thật kĩ lưỡng, chăm chú nghiên cứu mọi chỗ nứt vỡ, thọc cây vào cái khe tìm thấy phía dưới khối đá đo cẩn thận độ sâu của nó, rồi thong thả bước về phía trại, vừa đi vừa mở hộp đựng đạn ra đếm.
Cậu vừa tính được tới gần ba trăm thì từ trên cây bao báp mọc cách lều chừng năm mươi thước có tiếng Mêa gọi to: 
- Ông chủ, ông chủ ơi! 
Xtas tiến lại gần cái cây khổng lồ mà thân cây ở gần mặt đất đã bị ruỗng, trông như một cái tháp và hỏi: 
- Gì thế? 
- Cách đây không xa có nhiều ngựa vằn, còn xa hơn nữa là linh dương. 
- Được rồi. Tôi sẽ lấy súng đi bây giờ, phải kiếm ít thịt chứ. 
Nhưng sao cô lại leo lên cây làm gì trên ấy? 
Cô gái bèn đáp lại bằng giọ ng buồn bã nghe như hát: 
- Mêa trông thấy tổ vẹt xám nên muốn mang về cho cô chủ, nhưng tổ rỗng không, thế là Mêa không được thưởng chuỗi hạt cườm đeo cổ rồi. 
- Cô sẽ được thưởng vì có lòng yêu cô chủ. 
Cô bé da đen nhanh như sóc leo xuống dọc thân cây nhiều cành, mắt sáng long lanh lặp đi lặp lại: 
- Ôi, đúng, đúng lắm! Mêa yêu cô chủ, và yêu cả chuỗi hạt nữa mà. 
Xtas âu yếm vuốt tóc cô bé, rồi lấy súng, đóng hộp đạn và đi về phía lũ ngựa vằn đang gặm cỏ, Nửa giờ sau, tiếng súng vọng tới trại, và sau một giờ, cậu bé thợ săn quay về với tin là đã bắn được một con ngựa vằn non, và trong vù ng lân cận đấy có rất nhiều loài thú ăn cỏ bởi trên một chỗ cao, ngoài ngựa vằn cùng hàng đoàn linh dương ra, cậu còn trông thấy nhiều oatơbúc, tức là những đàn dê nước, đang ăn gần sông. 
Rồi Xtas bảo Cali lấy ngựa đi chở con thịt săn được về, còn cậu bé thì chăm chú xem xét cái thân khổng lồ của cây bao báp, đi vòng quanh nó và dùng báng súng gõ gõ vào vỏ cây. 
- Anh làm gì thế? - Nen hỏi. 
Cậu bé trả lời: 
- Em trông này, to ghê chưa? Mười lăm ngườ inắm tay nhau cũng không ôm xuể; thân cây này có thể còn chứng kiến cả thời các vua pharaôn kia đây! Nhưng phần dưới thân cây đã bị ruỗng và trống rỗng cả. Em thấy cái lỗ này không? Qua lỗ này có thể vào được bên trong đây. Chúng mình có thể dùng nó làm một cái nhà lớn để ở. Anh nghĩ ra điề u đó khi trông thấy Mêa đang leo trong đám cành lá, rồi sau đó, trong khi đi săn ngựa vằn, anh cứ nghĩ mãi về chuyện đó. 
- Nhưng chúng mình sẽ đi tới Abixinia kia mà, anh? 
- Phải. Nhưng cũng cần phải nghỉ ngơi đã, và như hôm qua anh đã nói với em, anh quyết định sẽ dừng lại đây chừng một hai tuần lễ. Em không muốn rời bỏ con voi còn anh thì lại lo cho em trong mùa mưa này. Mùa mưa đang bắt đầu và chẳng bao lâu nữa thì chuyện sốt rét là cầm chắc. Hôm nay trời đẹp, nhưng em thấy không, mây mỗi lúc một dầy hơn, biết đâu trước khi trời tối sẽ mưa cũng nên. Cái lều không đủ che mưa cho em, còn trong thân cây bao báp, nếu như nó không rỗng lòng cho tới tận ngọn, thì chúng mình có thể chấpcả những cơn mưa rào lớn nhất. Ở trong đó cũng sẽ an toàn hơn trong lều vì đến đêm chỉ cần dùng gai bịt kín lỗ hổng và cái cửa sổ mà chúng mình sẽ trổ để lấy thêm ánh sáng, là chúng mình có thể mặc bọn sư tử gào thét xung quanh, bao nhiêu con cũng mặc. Mùa mưa xuân không kéo dài quá một tháng, và càng ngày anh càng nghĩ là chúng ta sẽ phải chờ cho nó qua đã. 
Mà nếu thế thì nên ở lại đây hơn là một nơi nào khác và nên ở trong cây bao báp hơn là ở trong lều. 
Nen vốn đồng ý với tất cả những gì Xtas muốn, nên bây giờ cô bé cũng đồng ý; thêm nữa, ý nghĩ được ở lại bên cạnh con voi và luôn được sống trong ruột cây bao báp khiế n cô bé rất khoái chí. 
Cô bé liền nghĩ xem sẽ bầy biện các phòng như thế nào, sẽ sắp đặt chúng ra sao, bọn trẻ sẽ mời nhau ăn bữa chiều và bữa trưa thế nào. Rốt cuộc cả hai đứa trẻ cùng thích thú còn Nen thì muốn xem xét ngay lập tức ngôi nhà mới, nhưng Xtas - người ngày càng thu được nhiều kinh nghiệm sống và càng trở nên từng trải hơn liền ngăn cô bé lại. 
- Trước khi chúng ta vào ở trong đó, - em bảo, cần phải mờ i các vị chủ nhân ở trước ra đi đã, nếu như trong đó có các vị chủ nhân như thế. 
Nói rồi, cậu bé bảo Mêa ném vào lò ng cây bao báp mấy cành cây đang cháy và tỏa khói mù mịt. 
Hóa ra em đã hành động đúng, vì ruột cái cây khổng lồ này vốn đã có các vị chủ nhân khác cư trú từ trước; các vị chủ nhân mà người ta khó chờ đợi ở họ lòng mến khách.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 27

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Trong cây gỗ có hai lỗ: một lỗ rộng rãi cách mặt đất chừng nửa mét, lỗ thứ hai nhỏ hơn, nằm ở chiều cao của tầng hai các ngôi nhà thành phố. Mêa vừa ném vào lỗ phía dưới mấy cành cây đang cháy tỏa khói mù mịt thì từ lỗ phía trên liền bay vọt ra những chú dơi to tướng. Bị quáng mắt vì ánh sáng mặt trời, chúng kêu rít lên, bay như điên dại chung quanh thân cây. Lát sau từ lỗ phía dưới vị chủ nhà chính lao ra như một tia chớp, đó là một con trăn khổng lồ. Hình như trong trạng thái nửa thức nửa ngủ nó đang tiêu hóa nốt bữa tiệc vừa xơi thì bị khói xộc vào mũi nên choàng tỉnh dậy và tìm cách tháo thân. Thấy cái thân hình rắn như sắt tựa một thanh lò xo khổng lồ lao vọt ra từ cái hốc cây nghi ngút khói, Xtas liền bế thốc Nen trên tay chạy thục mạng về phía cửa rừng. 
Nhưng chính con bò sát ấy cũng kinh hoàng không kém. Chẳng nghĩ tới chuyện đuổi theo lũ trẻ, nó quằn mình trong cỏ và những gói đồ đạc đang mở tung, lao nhanh như chớp về phía khe núi, hẳn là muốn náu mình trong các tảng đá và khe nứt. Bọn trẻ hoàn hồn lại. Xtas đặt Nen xuống đất vọt tới lấy súng chạy theo sau con trăn về phía khe, còn Nen cũng chạy theo sau. Nhưng chỉ được hơn chục bước chân, chúng nhìn thấy một cảnh tượng khiến chúng đứng sững như trời trồng. 
Trong chớp mắt thân hình con trăn hiện ra rất cao trên vùng khe, vạch lên một đường loằng ngoằng trong không gian rồi rơi xuống phía dưới. Lát sau nó lại xuất hiện lần thứ hai rồi lại rơi xuống. Bọn trẻ lao tới bờ vực và kinh ngạc nhìn thấy người bạn mới của chúng - con voi nọ - đang bỡn với trăn, và sau khi đã tung cho ông bạn trăn thực hiện hai chuyế n du hành trong không trung, giờ đây đang dùng bàn chân to như thớt đá giẫm nát đầu con trăn. Xong việc, nó lại dùng vòi nhấc cái thân hình hãy còn run rẩy lên, ném đi một lần nữa, nhưng lần này không lên cao mà lại ném thẳng xuống thác. Sau đó, gật gù đầu về hai phía, vẫy vẫy đôi tai, nó nhìn thẳng vào Nen rồi đưa vòi về phía cô bé dường như đòi lĩnh phần thưởng sau cái hành động vừa anh hùng vừa thận trọng kia của mình. 
Nen lập tức lao về lều và quay trở lại với một bọc đầy quả vả dại, cô bé bắt đầu ném từng vài quả một cho voi, còn nó dùng vòi tìm thật hết những quả rơi trong cỏ cho từng quả vào mồm. Những quả bị rơi xuống các khe sâu hơn, nó thổi bật lên với một sức mạnh khiến cho cả những cục đá to bằng nắm tay người cũng bay lên cùng với quả. Bọn trẻ vỗ tay hoan hô reo cười khen ngợi trò biểu diễn này. Nen mấy lần chạy về lấy thêm thức ăn và cứ mỗi quả vả ném đi cô bé lạ i không quên nhắc lại rằng con voi đã hoàn toàn thuần và ngay lúc này, bọn trẻ cũng đã có thể xuống với nó. 
- Anh thấy chưa, anh Xtas, thế là chú ng mình sẽ có một người hộ vệ!... Nó chẳng sợ con gì trong sa mạc hết: cả sư tử, rắn rết lẫn cá sấu. Nó lại rất tốt bụng và chắc chắn là rất yêu mến chúng mình. 
- Nếu như nó thuần được - Xtas nói, - và nếu như anh có thể để em lại cho nó trông nom thì quả thực anh hoàn toàn yên tâm đi săn bắn, vì trong cả châu Phi này không thể tìm đâu ra cho em một hộ sĩ tốt hơn nó nữa. 
Rồi lát sau cậu bé nói thêm: 
- Voi ở đây nói chung hoang dã hơn, nhưng anh đã từng đọc thấy rằng voi Á châu rất mềm yếu, mềm yếu một các kì lạ đối với trẻ con. Tại Ấn Độ chưa từng có trường hợp nào voi làm hại trẻ con, và nếu như voi phát khùng, thì những người quản tượng bản xứ thường làm chúng nguôi đi bằng cách mang trẻ con tới. 
- Đấy, anh thấy chưa, anh thấy chưa nào? 
- Dù sao đi nữa, em cũng hành động đúng khi không cho anh giết chết nó. 
Đôi đồng tử của Nen bừng lên ánh vui sướng, giống hệt hai ngọn lửa màu xanh lục. Đứng nhón trên các đầu ngón chân, cô bé đặt cả hai tay lên vai Xtas rồi ngả người ra phía sau cô bé nhìn thẳng vào mắt cậu: 
- Thế em đã hành động như người bao nhiêu tuổi? Nào, nói đi anh, như em bao nhiêu tuổi nào? Cậu bé đáp: 
- Ít nhất cũng bảy mươi. 
- Anh thì lúc nào cũng đùa được. 
- Giận đi, cứ giận đi. Thế ai sẽ giải phóng cho con voi nào? 
Nghe thấy thế, Nen lập tức trở lại hiền dịu như một con mèo con. 
- Anh chứ ai, và em sẽ rất yêu anh, cả con voi cũng thế. 
- Anh đang nghĩ cách, - Xtas nói, - nhưng đó là một việc rất khó, anh sẽ không làm ngay bây giờ, mà sẽ làm lúc chúng mình sắp lên đường đi tiếp. 
- Sao thế anh? 
- Vì rằng, nếu anh giải thoát cho nó trước khi nó thuần và hoàn toàn gắn bó với chúng ta thì nó sẽ bỏ đi mất. 
- Ồ, nó sẽ không bỏ em mà đi đâu!- Em nghĩ như thể nó là anh không bằng ấy! -Xtas đáp vẻ hơi bẳn. 
Cuộc trò chuyện bị Cali làm gián đoạn, cậu bé da đen quay trở về mang theo con ngựa vằn cái săn được và con ngựa con bị Xaba gặm một ít. Thật là may cho con chó, vì chạy theo Cali, nó không có mặt trong khi giải quyết con trăn, chứ nếu không nó đã lao theo con trăn và chắc sẽ chết trong những vòng cuộn siết của thân mình con vật trước khi Xtas kịp tới cứu. Vì chuyện gặm con ngựa vằn con, nó bị Nen bẹo tai, nhưng thực ra nó cũng chẳng để tâm gì lắm tới hình phạt đó, thậm chí nó cũng không rụt cái lưỡi đang thè ra khi đi săn về nữa. 
Xtas nói lại cho Cali rằng cậu muốn làm nhà trong thân cây và thuật lại cho nó nghe chuyện đã xảy ra khi dùng khói hun bộng cây, cũng như chuyện con voi đã đối xử với con trăn như thế nào. 
Cậu bé da đen rất thích sáng kiến vào ở trong cây bao báp, cái cây không chỉ che mưa mà còn có thể che chở cho bọn trẻ khỏi các loài dã thú, song hành động của con voi lại không được nó tán đồng chút nào. Nó bảo: 
- Voi thật ngu ngốc, nên mới vứt con rắn vào cái nước gầm còn Cali thì biết rằng con rắn tốt ăn, nên Cali sẽ đi tới cái nước gầm để tìm lại, rồi nướng nó lên vì Cali thông minh và là donkey. 
- Cậu là donkey, đồng ý! - Xtas đáp. - Nhưng cậu sẽ không ăn thịt con rắn chứ hả? 
- Con rắn tốt ăn! - Cali nhắc lại:Và chỉ vào con ngựa vằn bị giết, nó nói thêm: 
- Tốt ăn hơn cái thịt này. 
Sau đó cả hai tới bên cây bao báp để bắt tay vào việc sửa soạn chỗ ở. Cali tìm bên sông một phiến đá phẳng to bằng mặt sàng lớn đặt vào trong bộng cây, đặt những cục than đang cháy lên trên đó, chú ý sao cho những lớp gỗ mục trong lòng cây không bị bén gây cháy cả cây. Nó nói rằng làm thế nào cho “khỏi có con gì cắn ông lớn và cô bé”. Hóa ra, đó hoàn toàn không phải là một chuyện cẩn thận quá đáng, vì khi khí than tràn ngập trong thân cây thì từ các chỗ nứt nẻ của vỏ cây bắt đầu trườn ra đủ mọi thứ sinh vật khác nhau: những con bọ sừng màu đen tuyền và màu nâu chín, những chú nhện lông lá to như quả mận chín, những con sâu mình đầy gai to bằng ngón tay, và cả những con rết độc kinh tởm và vết cắn có thể làm chết người. Và căn cứ vào nhữ ng gì diễn ra phía bên ngoài thân cây, đễ dàng có thể đoán được có biết bao nhiêu loài sinh vật tương tự đã chết ngạt bởi hơi than bên trong ruột cây. Cali dùng đá nghiền nát không thương tiếc tất cả những con vật từ vỏ cây và từ những cành thấp rơi ra cỏ, vừa làm nó vừa dòm chừng vào cái hốc dưới và hốc trên dường như e sợ một con gì đó sẽ bất ngờ lao ra. 
- Sao cậu cứ dòm chừng thế? - Xtas hỏi - cậunghĩ rằng một con trăn thứ hai còn đang ẩn náu trong thân cây chăng? 
- Không đâu, - Cali sợ Mdimu. 
- Mdimu là cái gì? 
- Cái ma. 
- Cậu đã trông thấy cái ma bao giờ chưa đã? 
- Chưa, nhưng Cali đã nghe thấy những tiếng kêu kinh khủng của cái ma trong nhà của thầy phù thủy. 
- Thế các thầy phù thủy của các cậu không sợ cái ma hay sao? 
- Các thầy phù thủy biết cách niệm chú gọi cái ma, rồi đi tới các lều nói rằng cái ma nổi giận, thế là người da đen mang tới cho họ nào chuối, nào mật ong, nào rượu pomba, nào trứng, nào thịt để họ cầu xin cái ma cho. 
Xtas nhún vai. 
- Rõ ràng làm nghề phù thủy ở chỗ các cậu sướng thật đấy. 
Nhưng cũng có thể con trăn vừa rồi là cái ma chăng? 
Cali lắc đầu quầy quậy. 
- Nếu thế thì không phải voi giết chết cái ma mà cái ma giết chết voi ngay. Cái ma là cái chết đấy... 
Bỗng nhiên có tiếng động rầm rầm và tiếng ồn ào trong lòng cây gỗ làm gián đoạn lời thằng bé. Từ cái hốc cây phía dưới bùng lên một đám bụi lạ màu hung đỏ, tiếp đó lại vang lên tiếng rầm rầm còn dữ dội hơn lần trước. 
Trong nháy mắt, Cali quỳ sụp xuố ng đất và bắt đầu kêu thét lên kinh hoàng:
- Aka! Mdi-mu! Aka! Aka! Aka! 
Thoạt tiên, Xtas cũng tự nhiên thụt lùi, nhưng em nhanh chóng định thần lại, và khi Nen cùng Mêa chạy tới, em bắt đầu giải thích chuyện gì đã xảy ra. 
- Có thể là - em nói - những thớ mục trong thân cây bị nóng đã đổ sụp xuống phía dưới, phủ lên than. Thế mà nó lại nghĩ đó là Mdimu. Tuy nhiên Mêa hãy vẩy nước vài lần vào hốc cây đi, nếu không than thiếu không khí sẽ không tắt mà cứ cháy ngú n trong đó rồi lại bùng lên đấy. 
Rồi trông thấy Cali vẫn đang phủ phục, không ngừng lắp bắp kinh hoàng: “Aka! Aka!”, em bèn với lấy khẩu sú ng kíp vẫn dùng để săn chim pentacca bắn một phát vào gốc cây và vừa nói vừa dùng báng súng lay thằng bé dậy:
- Này, cái ma của cậu đã bị giết chết rồi! Đừng sợ nữa! Cali nhổm dậy nhưng vẫn ở tư thế quỳ: 
- Ôi, ông lớn, ông lớn... Ông không sợ cả cái ma hay sao? 
- Aka! Aka! - Xtas kêu lên nhại theo giọng cậu bé da đen. 
Và nó bật cười. 
Một lát sau Cali bình tĩnh lại hoàn toàn và khi ngồi vào ăn những thức mà Mêa đã sửa soạn thì dường như cơn sợ hãi trong chốc lát hoàn toàn không khiến nó mất ngon miệng chút nào, vì ngoài suất thịt khô nó còn chén hết cả một lá gan tươi của con ngựa vằn con, chưa kể tới những quả dại mà cây sung Ai Cập mọc gần đấy cung cấp với số lượng dồi dào. Sau đó, cùng với Xtas, nó quay trở lại chỗ cây bao báp vì ở đó hãy còn vô khối công việc. Việc vứt bỏ những thớ gỗ mục ruỗng, than củi, hàng trăm con bọ sừng chết thui, những con bọ đất to tướng cùng với hơn chục con dơi bị nướng chín khiến chúng phải mất hơn hai tiếng đồng hồ. Xtas ngạc nhiên tại sao lũ dơi lại có thể sống chung với con trăn, nhưng sau em nghĩ ra rằng hoặc là con trăn khổng lồ không màng tới những miếng mồi quá nhỏ bé này, hoặc là trong bộng cây, không có cái gì tựa để cuộn mình nên nó không thể với tới được lũ dơi. 
Hơi nóng của lửa than làm những lớp gỗ mục ruỗng đổ sụp xuống đã khiến cho bên trong thân cây rất sạch sẽ; trông thấy thế, Xtas vô cùng vui sướng, vì bên trong rộng như một căn phòng lớn, có thể làm nơi nương thân không phải chỉ cho bốn mà đủ chỗ cho cả chục người. Cái hốc phía dưới trở thành cửa ra vào, hốc phía trên là cửa sổ, nhờ thế trong ruột cái cây khổng lồ không hề tối tăm hay ngột thở. Xtas nghĩ tới việc dùng vải lều chia toàn bộ bên trong ra làm hai phòng, một dành cho Nen và Mêa, một cho mình, Cali và con Xaba. Cây gỗ không bị ruỗng đến tận ngọn nên nước mưa không thể chảy vào bên trong và không cần phải che mưa, chỉ cần lấy vỏ cây chắn bên trên hai cái lỗ làm thành mái che mưa là đủ. 
Bọn trẻ quyết định sẽ dùng cát nóng ở bờ sông mang về rải bên trong, còn trên mặt cát thì trải rêu khô. 
Công việc quả là nặng nhọc vô cùng, nhất là đối với Cali, vì ngoài việc đó ra, nó còn phải sấy thịt, cho ngựa uống nước và lo lương thực cho con voi, chú voi luôn luôn rống lên đòi ăn. Song, cậu bé da đen rất nhiệt tình lao vào việc tạo dựng chỗ ở mới, lí do của sự nhiệt tình này cậu bé đã tuyên bố với Xtas ngay trong ngày hôm đó như sau: 
- Nếu ông lớn và cô vào ở trong lòng cây gỗ - nó vừa nói vừa khoanh tay quanh bụng, - thì Cali sẽ không phải đêm nào cũng dựng hàng rào lớn và chiều chiều có thể ngồi chơi không. 
- Thế cậu muốn ngồi chơi lắm à? - Xtas hỏi. 
- Cali là đàn ông mà, Cali thích ngồi chơi, chỉ có đàn bà là phải làm việc thôi. 
- Thế mà cậu thấy đấy, tớ vẫn làm việc phục vụ cho cô bé đấy thôi. 
- Thế nhưng khi cô bé lớn lên, sẽ phải làm việc cho ông lớ n, nếu như cô bé không muốn làm, thì chắc chắn ông lớn sẽ đánh cô bé ngay. 
Nhưng chỉ riêng cái ý nghĩ đánh cô bé đã khiến Xtas nhảy lên như phải bỏng, cậu kêu lên đầy giận dữ: 
- Đồ ngốc, cậu có biết cô bé là ai không đã? 
- Không biết ạ - cậu bé da đen sợ hãi đáp. 
- Cô bé là... là... Mdimu Tốt đấy! 
Cali sụp xuống đất. 
Sau khi công việc xong xuôi, nó rụt rè tiến đến bên Nen, quỳ sụp xuống đất, lặp đi lặp lại với giọng không phải sợ hãi nữa mà là cầu xin: 
- Aka! Aka! Aka!... 
Nhưng cái cô “Mdimu Tốt” này tròn mắt nhìn nó, đôi mắt tuyệt đẹp, có màu lam của nước biển, hoàn toàn không hiểu chuyện gì xảy ra và chàng Cali nọ muốn gì?



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 28

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Nơi ở mới, mà Xtas đặt tên là “Cracốp”(1), được hình thành trong vòng ba ngày. Nhưng trước đó, bọn trẻ đã đặt những gói đồ đạc chính vào “phòng con trai”, và trong những lúc trời đổ mưa lớn, bộ tứ đã tìm được trong cái thân khổng lồ một chỗ ẩn náu thật tuyệt vời, ngay trước khi hoàn thành nơi ở mới. Mùa mưa đã thật sự bắt đầu, nhưng đó hoàn toàn không giống như những ngày mưa thu dài dằng dặc của chúng ta, khi bầu trời đầy mây đen u ám và những làn mưa buồn tẻ nặng nề kéo dài hàng tuần liền. Còn ở nơi đây, hơn chục lần trong một ngày, gió mang qua bầu trời những đám mây nặng trĩu, tưới nước ào ạt xuống mặt đất, nhưng sau đó mặt trời lại bừng lên rực rỡ, dường như vừa mới được tắm gội tinh tươm và rót ánh vàng xuống những vách đá, dòng sông, cây cối và toàn bộ khu rừng. Cỏ mọc nhanh gần như trông thấy. Cây cối ra lá dày hơn và trước khi những quả già rụng xuống thì những mầm quả non mới đã hình thành. Do có chứa nước nên không khí trở nên trong suốt đến nỗi những vật ở rất xa cũng hiện ra hoàn toàn rõ nét, và tầm mắt có thể vươn xa đến một vùng rộng lớn. Trên bầu trời vắt vẻo những chiếc cầu vồ ng bảy sắc tuyệt đẹp, còn thác nước thì gần như lúc nào cũng lộ ng lẫy ánh hào quang của những chiếc cầu vồng được tạo thành. Ráng sáng và ráng chiều ngắn ngủ i gieo lung linh ngàn thứ sắc màu, đến nỗi ngay cả hồi ở sa mạc Libi bọn trẻ cũng chưa từng được trông thấy phong cảnh kì thú như thế bao giờ. Những đám mây thấp gần mặt đất nhất có màu anh đào, những đám mây phía trên được chiếu sáng nhiều hơn thì tràn ngập ra thành một mặt hồ đẫm sắc đỏ rực và vàng kim, còn những gợn sóng mây nhỏ nhỏ như tơ thì đổi sắc như hồng ngọc, thạch ngọc và bạch ngọc. Ban đêm, khoảng giữa hai làn mưa, mặt trăng biến những giọt nước sương treo trên lá cây xiêm và trinh nữ thành những viên kim cương lóng lánh, và ánh sáng hoàng đạo tỏa sáng rực rỡ hơn bất kì mùa nào khác trong bầu không khí vừa được tẩy cho trong lành. 
Từ phía những vùng nước do dòng sông hình thành ở bên dưới thác, vọng về tiếng kêu đầy lo lắng của ếch nhái và tiếng cóc buồn thảm, những chàng đom đóm trông như những vì sao xanh to lớn lang thang cứ bay từ bờ này sang bờ kia, giữa những lùm tre và những bụi cây chân bê. 
Song những khi mây đen che kín bầu trời sao và mưa bắt đầu rơi thì trời lại đen sầm, trong ruột cây bao báp cứ tối như dưới hầm vậy. Muốn tránh tình cảnh đó, Xtas bảo Mêa rán mỡ của những con thú săn được, lấy vỏ đồ hộp làm một chiếc đèn treo dưới cái lỗ thông ở phía trên, vẫn được bọn trẻ gọi là cửa sổ. Trong bóng đêm, ánh sáng rọi từ chiếc cửa sổ này có thể trông thấy được từ rất xa, xua đuổi bớt các loài dã thú, nhưng lại thu hút lũ dơi và cả những con chim, đến nỗi cuối cùng Cali phải làm ở đó một tấm rèm gai, giống như cái hàng rào mà đêm đêm nó dùng để bịt kín lỗ thông phía dưới. 
Còn ban ngày, trong những phút đẹp trời, bọn trẻ rời “Cracốp” tỏa đi khắp mũi đất, Xtas thì đi săn linh dương arien và đà điểu (giống chim này xuất hiện từng đàn lớn ở phía hạ lưu dòng sông), Nen tới với chàng voi của mình. Ban đầu con vật chỉ rống lên đòi ăn, nhưng về sau nó bắt đầu rống lên cả khi thấy thiếu vắng cô bạn bé nhỏ nữa. Và lúc nào nó cũng chào đón cô bé với một niềm sung sướng rõ rệt, thoạt nghe thấy giọng nói hoặ c tiếng bước chân của cô bé ở xa xa là nó đã dỏng ngay tai lên rồi. 
Một lần, khi Xtas đang đi săn bắ n, Cali đang câu cá dưới thác, Nen quyết định tới cái khối đá đang bít kín khe núi để xem thử Xtas đã làm đượcgì với nó hay chưa. Đang bận lo chuẩn bị bữa trưa, Mêa không để ý đến việc cô bé bỏ đi, còn Nen thì hái trên đường đi những đóa thu hải đường kì lạ mọc đầy trong các rạn đá và tiến lại phía sườn dốc mà dạo trước cả bọn đã đi theo để leo lên bờ khe. Sau khi tụt xuống, Nen đến được chân phiến đá. Phiến đá khổng lồ tách ra từ vách đá mẹ vẫn bịt kín họng khe núi như lúc trước. Song, Nen để ý thấy giữa nó và vách đá có một cái khe rộng đến độ người lớn cũng có thể trườn qua được. Cô bé ngần ngừ một lúc rồi lần sang phía bên kia. Phía đó còn có một chỗ ngoặt nữa mà cô bé phải đi qua trước khi tới đượ c chỗ thoát của khe núi bị thác nước chắn ngang. Nen bắt đầu cân nhắc: “Mình chỉ đi thêm một chút xíu nữa thôi, nấp sau tảng đá mình chỉ ngó con voi một lần thôi, nó không thể trông thấy mình được, rồi mình sẽ quay về ngay”. Nghĩ thế, cô bé hết bước này đến bước khác tiến xa hơn, mãi đến chỗ khe núi đột nhiên phình rộng thành một lòng thung nho nhỏ, thì nhìn thấy con voi. Nó đang đứng quay đuôi về phía cô bé, vòi nhúngxuống nước và đang uống nước. Điều đó khiến cô bé thêm bạo dạn. Nen dán mình vào vách đá, cô bé tiến thêm mấy bước chân nữa, mấy bước nữa, và khi con voi muốn phun nước lên sườn - nó quay đầu lại và trông thấy cô bé, vừa trông thấy nó liền lao tới phía Nen. 
Nen sợ lắm, nhưng không kịp quay trở lại nữa, nên áp sát hai đầu gối vào nhau, cô bé nhún mình chào con voi, rồi chìa tay đang cầm những đóa thu hải đường ra cô bé cất tiếng thanh thanh hơi run run nói: 
- Xin chào voi, voi thân yêu! Tôi biết là voi không làm gì hại tôi nên tôi đến để chào voi... tôi cũng chỉ có mấy bông hoa này thôi... 
Con vật khổng lồ tiến lại gần, vươn vòi ra túm lấy chùm thu hải đường trong tay Nen, nhưng vừa cho vào miệng nó lại thả rơi ngay xuố ng đất, rõ ràng là những cái lá nhám xì lẫn những bông hoa đều không ngon miệng nó tí nào. Nen trông thấy ngay trước mặt mình cái vòi có hình một con rắn khổng lồ màu đen, cứ cuộn vào rồi lại duỗi ra, chạm vào tay này rồi tay kia của cô bé, chạm vào hai vai, rồi sau rốt nó hạ xuống, bắt đầu ve vẩy nhè nhẹ sang hai bên. 
- Tôi biết là voi không làm gì hại tôi, - cô bé nhắc lại, dẫu nỗi sợ hãi vẫn chưa rời cô. 
Còn voi thì lật hai cái tai to như trong chuyện cổ tích ra phía sau, cuộn và mở vòi, đồng thời kêu lên những tiếng kêu khe khẽ đầy sung sướng như vẫn kêu mọi lần khi cô bé lại gần mép khe núi. 
Và cũng như cái lần Xtas đứng đối diện với sư tử, lúc này cả hai lại đứng đối diện với nhau - con voi thì khổng lồ, to như một căn nhà hay một tảng đá, còn cô bé thì chỉ là một cái mẩu nhỏ nhoi mà nó có thể giẫm bẹp bằng một cử động, thậm chí chỉ một cử động do vô ý chứ cũng không phải vì thù địch gì cả. 
Nhưng con vật tốt bụng và tinh khôn không hề làm một cử động nào giận dữ hay vô tình, và rõ ràng là nó vui sướng và hạnh phúc trước cuộc viếng thăm của vị khách nhỏ bé này. 
Nen dần dần bạo dạn hơn, cô ngước mắt như nhìn lên mái nhà cao, vừa hỏi vừa rụt rè chìa tay ra: 
- Tôi có thể vuốt vòi voi được chứ? 
Thực ra con voi không biết tiếng Anh, nhưng do cử chỉ của bàn tay cô, nó cũng đoán ra được, và nó bèn chìa cái mũi dài hai mét của mình lại gần bàn tay cô bé. 
Nen bắt đầu vuốt ve vòi con voi, ban đầu chỉ một tay và thận trọng, sau thì cô bé ôm cả hai tay và áp cả ngườ i vào đó bằng sự tin cẩn của trẻ thơ. 
Con voi nhấc nhổm chân này tiếp chân khác và vẫn tiếp tục kêu lên khe khẽ vì sung sướng. 
Rồi lát sau, nó dùng vòi cuộn lấy thân hình nhỏ bé của Nen nhấc lên cao và bắt đầu đánh đu nhẹ nhàng sang bên trái rồi bên phải. 
- Nữa nào, nữa nào! - Nen thích thú kêu lên. 
Trò chơi kéo dài thật lâu, rồi sau khi đã hoàn toàn bạo dạn, cô bé cố tìm cách leo theo chân trước của con voi như theo một thân cây, hoặc nấp dưới người nó và hỏi xem nó có tìm được không. 
Nhưng trong khi đang chơi những trò nghịch ngợm tinh quái như thế, cô bé phát hiện ra rằng ở chân trước và nhất là chân sau voi có nhiều gai cắm vào mà con voi không làm sao rứt ra được, trước hết vì vòi nó không thể thoải mái chạm tới chân sau, và sau nữa, hình như nó sợ làm bị thương cái chỏm vòi, thiếu cái đó thì vòi mất đi hoàn toàn sự khéo léo và lanh lẹ của mình. Nen hoàn toàn không biết rằng những chiếc gai như thế quả thật là tai họa đối với voi Ấn Độ và đặc biệt là voi rừng Phi châu, vì những khu rừng này gồm phần lớn là các loài cây nhiều gai. Nhưng cô bé thương con vật khổng lồ tốt bụng, nên không cần suy nghĩ lâu la gì, đã ngồi xệp ngay xuống gần chân nó và bắt đầu nhẹ nhàng nhổ những chiếc gai ra, đầu tiên là những chiếc gai lớn, sau đó là những cái dằm nhỏ hơn, đồng thời miệng cô bé không ngừng liến thoắng cam đoan với voi là sẽ không để sót một chiếc gai nào. Con vật hiểu rất rõ sự việc, nó khuỵu đầu gối xuống như muốn trỏ rằng trong gan bàn chân, giữa các móng chân cũng có gai cắm vào và chính những chiếc gai này khiến nó đau đớn hơn cả. 
Chính vào lúc đó, Xtas đi săn trở về và hỏi Mêaxem cô chủ đâu. Được trả lời rằng hẳn là cô chủ ở trong bộng cây, em đã định nhìn vào thì vừa lúc ấy hình như em thoáng nghe tiếng cô bé dưới lòng khe núi. Không tin vào tai, em nhảy vội tới mép vực nhìn xuống và sững người ra. Cô bé đang ngồi dưới chân con vật khổng lồ, còn con vật cứ đứng như thế, thật bình thản, không hề cử động cả tai lẫn vòi, đến nỗi ta có thể nghĩ rằng nó được tạc bằng đá vậy. 
- Nen! - Xtas kêu lên. 
Bận bịu vì công việc của mình, cô bé vui vẻ đáp lại: 
- Khoan đã, khoan đã! 
Nghe thấy thế, vốn không quen ngần ngừ khi có hiểm nguy, cậu bé liền dùng một tay giơ khẩu súng lên cao, một tay túm lấy thân dây leo khô đã bị tước trụi, quặp cả hai chân và o đó, và trong nháy mắ t đã tụt xuống lòng khe. 
Con voi lo lắng động đậy hai tai, nhưng chính lúc đó Nen đã đứng dậy ôm lấy vòi nó vội vã kêu lên: 
- Đừng sợ nào voi, đó là Xtas đấy! 
Xtas nhận ra ngay không hề có mối nguy hiểm nào đe dọa cô bé, nhưng chân em như muốn khuỵu xuống, tim đập gấp, và trước khi kịp bình tâm lại vì ấn tượng vừa qua, em thốt lên bằng giọng nói nghẹ n ngào, đầy hờn giận: 
- Nen, Nen, sao em lại làm thế?!... 
Còn cô bé cố giải thích rằng có làm chuyện gì nên tội, vì con voi tốt bụng và hoàn toàn đã thuần rồi, rằng cô bé chỉ muốn nhìn nó một chút rồi sẽ quay lại ngay, nhưng nó cứ giữ cô bé lại để cùng chơi, rằng nó đã đu đưa cô bé rất thận trọng, và rằng nếu như Xtas muốn thì voi cũng sẽ đu cả Xtas nữa. 
Nói thế, cô bé dùng một bàn tay cầm lấy chỏm vòi voi kéo lại phía Xtas, còn tay kia vung vẩy bên trái bên phải mấy lần liền và nói với con voi: 
- Voi ơi, hãy đu đưa cả Xtas đi nào! 
Con vật thông minh đoán ra được qua những cử chỉ của cô bé điều mà cô bé muốn ở nó, và thế là Xtas - bị tóm ngang thắt lưng quần đùi - một giây sau đã lơ lửng trong không trung. Thật là mâu thuẫn giữa nét mặt hãy còn hậm hực của thằng bé và cái trò đung đưa lơ lửng trên mặt đất, nên cô Mdimu nhỏ bé cười đến chảy nước mắt, vừa cười vừa vỗ tay, và kêu lên như lần trước: 
- Nữa đi, nữa đi! 
Khi người ta đang bị lơ lửng trong không khí trên một cái vòi voi và thực hiện chuyển động tương tự như dao động của con lắc dù muốn hay không, thì thực khó mà giữ vẻ mặt nghiêm nghị để lên lớp giáo huấn về đạo đức, thế nên cậu bé rốt cuộc cũng phải bật cười. Nhưng chỉ một lát sau em cảm thấy chuyển động của cái vòi chậm dần lại và rằng con voi muốn đặt em xuống đất, em chợt nảy ra một ý mới: nhân lúc ở gần cái tai to tướng của con voi, em bèn dùng hai tay túm chặt lấy tai và trong chớp mắt đã ngồi chễm chệ trên đầu voi. 
- Ha ha! - Cậu bé từ trên cao gọi xuống với Nen. 
- Hãy để cho nó hiểu rằng nó phải vâng lời anh. 
Em vỗ vỗ tay lên đầu voi với vẻ mặt của một ông chủ và người chỉ huy. 
- Hay lắm, - Nen đứng dưới kêu lên, - nhưng bây giờ anh làm thế nào để xuống? 
- Chẳng có gì là khó, - Xtas đáp. 
Và thõng hai chân xuống trước trán voi, em dùng hai tay ôm lấy cái vòi tụt theo vòi xuống đất như tụt theo cây gỗ vậy. 
- Thế, thế là anh xuống!... 
Rồi cả hai đứa lại tiếp tục việc nhổ những chiếc gai còn lại ra khỏi chân voi, con vật tỏ ra rất giàu tính chịu đựng trong cuộc “phẫu thuật” này. 
Lúc đó, những giọt mưa đầ u tiên bắt đầu rơi, Xtas bèn quyết định phải đưa ngay Nen trở về “Cracốp”, nhưng đến lúc này mới nảy ra một trở ngại không ngờ. Con voi không muốn chia tay với Nen bằng bất kì giá nào, và cứ hễ cô bé bước ra xa là nó lại vươn vòi ra kéo lại. Tình thế trở nên nặng nề, trò chơi vui vẻ có thể kết thúc không lành vì sự ương bướng của con vật. Cậu bé không biết nên làm gì vì mưa mỗi lúc một dày hơn và trời có vẻ sắp đổ mưa rào. Cả hai cũng lùi được một tí về phía lối thoát ra, nhưng vẫn chưa được bao nhiêu, còn con voi cũng đi theo sau chúng. 
Cuối cùng, Xtas đứng chắn giữa Nen và con voi, nhìn thẳng vào cặp mắt của nó, đồng thời hạ giọng thì thầm bảo Nen: 
- Đừng chạy, nhưng cứ lùi dần dần đến chỗ khe hẹp đi. 
- Thế còn anh, anh Xtas? - Cô bé hỏi lại. 
- Lùi đi, - cậu bé nhấn mạnh đáp lại, - nếu không anh buộc phải bắn chết con voi. 
Dưới tác dụng của lời đe dọa này, cô bé đành tuân lệnh, hơn nữa cô bé đã vô cùng tin vào con voi và chắc chắn rằng trong bất kì trường hợp nào nó cũng sẽ không làm điều gì hại tới Xtas cả. 
Còn cậu bé đứng cách con vật khổng lồ bốn thước, không rời mắt khỏi nó. 
Mấy phút trôi qua. Im lặng đầy đe dọa. Hai tai của con voi ve vẩy vài lần, cặp mắt nhỏ bé sáng lên những ánh lạ và cái vòi bỗng vung lên không trung. 
Xtas tái người đi. 
“Chết này!” - Em nghĩ thầm. 
Nhưng đột nhiên con voi quay trở lại về phía bờ khe núi, nơi nó vẫn thường trông thấy Nen và bắt đầu rống lên thê thảm hơn lúc trước rất nhiều. 
Còn Xtas bình tĩnh bước về phía khe hẹp và tìm thấy Nen phía bên kia khối đá, cô bé không muốn đi về nhà khi chưa thấy cậu ra. 
Cậu bé muốn nói với Nen - một ý muốn gần như không kìm hãm nổi: “Đấy, em xem, em đã gây nên chuyện gì. Vì em mà một chút nữa anh bỏ mạng”. Nhưng không còn thời giờ để “lên lớp” nữa, bởi cơn mưa đã chuyển thành mưa rào và phải quay về nhà càng nhanh càng tốt. Nen ướt như chuột lột, mặc dù Xtas đã quấn cô bé trong bộ quần áo của mình. 
Vào trong cây bao báp, Xtas bảo Mêa thay quần áo cho Nen, còn em sang phòng con trai cởi dây cho con chó Xaba (trước đó con chó bị buộc dây để đề phòng nó sẽ theo vết Xtas đi săn thú), rồi lục lọi trong đám quần áo và đồ đạc, cố tìm xem với hi vọng rằng có thể sẽ còn lại một chút kí ninh nào để quên ở đâu đó chăng. 
Nhưng em không tìm thấy gì cả. Chỉ ở đáy cái lọ mà nhà truyền giáo đưa cho ở Kháctum là còn một ít bột trắng đọng trong kẽ lọ, nhưng ít đến nỗi có lẽ chỉ đủ để làm trắng đầu ngón tay mà thôi. Dù sao, em cũng quyết định sẽ đổ nướ c sôi vào tráng lọ và đưa cho Nen uống thứ nước vét này. 
Sau đó, khi cơn mưa tạnh, mặt trời lại chiếu sáng, em bước ra khỏi cây gỗ để xem những con cá Cali mang về. Cậu bé da đen câu được hơn chục con bằng lưỡi câu làm bằng dây thép nhỏ. Phần lớn là cá bé nhưng cũng có ba con dài chừng một bộ, vẩy bạc, nhẹ một cách lạ lùng. Mêa, vốn sinh trưởng ở vùng sông Nin Xanh và hiểu nhiều về các thứ cá, bảo rằng cá này ăn rất ngon, và rằng cứ chiều chiều chúng lại nhảy lên khỏi mặt nước. Khi mổ cá mới thấy rằng sở dĩ chúng nó nhẹ như thế là vì trong bụng chúng có những chiếc bong bóng to tướng. Xtas cầm lấy một chiếc - to bằng một quả táo lớn mang về cho Nen xem: 
- Trông này, - em bảo, - cái này ở trong bụng cá.Có độ mươi cái bong bóng thế này chúng mình có thể làm kính che cửa sổ đấy. 
Và em trỏ lên cái lỗ thông phía trên cây. Song nghĩ ngợi một lát em nói thêm: 
- Và còn hơn nữa kia. 
- Gì nữa kia anh? - Nen thích thú hỏi. 
- Làm cả diều nữa. 
- Những cái diều như hồi trước anh thả ở Port Xaiđơ ấy à? ôi, hay quá, làm ngay đi anh! 
- Anh sẽ làm. Khung anh sẽ làm bằng những thanh tre mỏng, còn bong bóng này anh sẽ dùng thay cho giấy. Thứ này còn tốt hơn giấy kia, vì nhẹ hơn và không bị ngấm nước mưa. Diều này thì có thể lên cao lắm, và gió mạnh có thể đưa nó đi chưa biết đến đâu... 
Nói tới đây, nó đập tay vào trán. 
- Anh nghĩ ra một ý hay rồi đây. 
- Ý gì, anh? 
- Em sẽ thấy. Khi nào anh nghĩ thật kĩ anh sẽ bảo em. Còn bây giờ cái con voi này nó gào đến nỗi không thể nào nói chuyện nổi nữa... 
Quả thực, vì nhớ Nen, mà cũng có thể là nhớ cả hai đứa, con voi đang rống lên đến nỗi cả khe núi cùng những cây cối xung quanh đều rung động. 
- Phải ra cho nó trông thấy thôi, - Nen bảo, - nó sẽ yên ngay. 
Bọn trẻ đi ra khe. Nhưng đang tiếp tục dòng suy nghĩ của mình, Xtas bắt đầu tự nói lẩm nhẩ m: 
- “Nenly Rôlixơn và Xtanixoáp Tarơcốpki ở PortXaiđơ, chạy trốn từ Phasôđa khỏi tay bọn phiến loạn, hiện đang ở tại...” Và đột nhiên em dừng lại hỏi: 
- Làm sao để nói là chúng mình đang ở đâu?... 
- Gì cơ, anh Xtas? 
- À không, không có gì. Anh biết rồi: “Đang ở cách sông Nin Trắng một tháng đường về phía Đông - và yêu cầu nhanh chóng được ứng cứu”... Khi nào gióthổi về phía Bắc hoặc phía Đông, anh sẽ thả những chiếc diều như thế này, hai mươi chiếc, năm mươi chiếc, một trăm chiếc, còn em, Nen, em sẽ giúp anh dán diều. 
- Diều ư anh? 
- Phải, anh chỉ nói với em rằng những cái diều này có thể sẽ giúp chúng mình nhiều hơn cả chục con voi đấy. 
Lúc này, bọn trẻ đã ra tới bờ khe. Con vật khổng lồ bắt đầu nhấp nhổm đổi chân, gật gật đầu, vẫy vẫy tai, kêu khe khẽ rồi lại rống váng lên não nuột khi Nen định bỏ đi. Rốt cuộc Nen phải giải thíchcho “voi thân yêu” là không thể ngồi mãi bên cạnh nó được, vì còn phải ăn, ngủ, làm việc và bày biện ở “Cracốp”. Nhưng con voi chỉ chịu yên sau khi cô bé đã đẩy xuống cho nó những thứ thức ăn mà Cali đã chuẩn bị; ấy thế nhưng đến đêm nó lại bắt đầurống lên. 
Từ chiều hôm đó, bọn trẻ bắt đầu gọi nó là “King”(2) vì Nen cam đoan rằng trước khi bị hãmvào khe núi chắc chắn nó phải là vua của loài voi trên toàn Phi châu. 
--------- 
1 Cracốp là thủ đô cũ của Ba Lan. 
2 King - tiếng Anh có nghĩa là “vua”.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 29

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Mấy ngày liền, Nen dành tất cả những giờ trời không mưa để ở bên cạnh King, con voi không còn cản trở cô bé ra về vì hiể u được rằng cô bé sẽ còn quay trở lại vài lần nữa trong ngày. Cali, nói chung vốn sợ voi, nên nhìn chuyện đó với vẻ kinh ngạc, và cuối cùng cậu bé đi đến chỗ tin rằng cái ma tốt hùng mạnh nọ đã bùa chài được con vật khổng lồ, nên cũng bắt đầu đến thăm con voi. 
King đối xử với nó cũng như đối với Mêa rất tốt bụng, nhưng chỉ riêng mình Nen là có thể làm tất cả những điều gì cô bé muốn đối với con voi, đến nỗi một tuần sau cô bé đãdám dẫn cả Xaba tới chơi với nó. Đối với Xtas, đây là chuyện rất nhẹ người, vì em có thể hoàn toàn yên tâm để Nen ở lại dưới sự coi giữ của con voi - mà như em diễn đạt: dưới vòi voi - và không hề lo lắng gì cả. Giờ đây em tin rằng, con vật tốt bụng sẽ không khi nào rời bỏ cả bọn và bắt đầu nghĩ cách làm thế nào để giải thoát cho nó ra khỏi chỗ giam cầm. 
Nói cho đúng thì em đã tìm ra phương sách từ lâu chỉ có điều cái phương sách ấy đòi hỏi phải hi sinh quá nhiều nên em cứ đấu tranh mãi, không hiểu có nên sử dụng cách đó hay không, và cứ lần lữa từ ngày này sang ngày khác. 
Vì không có ai để giãi bày, nên cuối cùng em quyết định sẽ thổ lộ những ý định của mình với Nen, dù vẫn coi Nen chỉ là một đứa trẻ. 
- Có thể dùng thuốc súng để phá vỡ tảng đá, em nói, nhưng muốn thế phải tiêu tốn rất nhiều thuốc đạn, nghĩa là phải tháo chúng ra khỏi vỏ đạn và gói lại thành một khối lớn. Cái khối đó đẩy thật sâu vào khe hở đang có sẵn ở chính giữa, rồi lèn kín lại và đốt ngòi. Khi ấy, tảng đá sẽ vỡ ra thành vài hay vài chục mảnh nhỏ, King có thể ra được. 
- Nhưng nếu như có tiếng nổ thật to thì nó sơ ålắm. 
- Cứ mặc cho nó sợ chứ sao! - Xtas đáp lại ngay. -Anh chẳng phải lo đến chuyện đó. Thật chẳng đáng nói chuyện nghiêm túc với em làm gì. 
Song em vẫn nói tiếp, hay đúng hơn là tiếp tục suy nghĩ thành tiếng: 
- Nhưng nếu như dùng quá ít thuốc thì khối đá không vỡ và thế là lãng phí mà chẳng được gì, còn nếu như dùng thuốc cho đủ, thì chúng mình sẽ chẳng còn lại được bao nhiêu đạn. Và nếu như cuối chặng đường mà thiếu thuốc súng thì chúng mình bị chết mất. Anh sẽ dùng cái gì để đi săn hoặc để tự vệ trong trường hợp chúng mình bị tấn công? Chính em cũng biết rõ là nếu như không có khẩu súng này, không có những viên đạn này thì chúng mình đã chết từ lâu, nếu không phải chết vì tay tên Ghebơrơ thì cũng vì đói. Mà cũng thật may là chúng mình còn có ngựa chứ nếu không cũng chẳng mang nổi đồ đạc và thuốc súng. 
Nghe thấy thế, Nen đưa một ngón tay lên trời và nói với vẻ rất tin tưởng: 
- Nếu như em bảo King thì King sẽ mang cho chúng mình tất cả mọi thứ. 
- Nó sẽ mang thứ gì nếu như thuốc súng chẳng còn lại bao nhiêu? 
- Thế thì nó sẽ bảo vệ chúng mình... 
- Nhưng nó đâu có thể dùng vòi để bắn vào lũ thú như anh bắn súng. 
- Thế thì chúng mình sẽ ăn sung ăn vả và những quả dưa bở mọc trên cây, còn Cali thì thế nào chẳng kiếm ra cá. 
- Chỉ khi nào chúng mình còn ở gần sông mà thôi. Cần phải chờ ở đây cho qua mùa mưa; vì những cơn mưa này sẽ mang tới cho em bệnh sốt rét dễ như chơi. Nhưng cần nhớ rằng sau đó chúng mình sẽ đi tiếp, và chúng mình rất có thể sẽ lại rơi và o sa mạc nữa. 
- Sa mạc như Xahara à? - Nen hỏi, vẻ lo sợ. 
- Không, nhưng có thể gặp sa mạc, trên đó không hề có cây cối hay sông suối gì hết, mà chỉ toàn một loài xiêm gai lùn tè và cây trinh nữ thôi. Trên một sa mạc như thế chúng mình chỉ có sống bằng những thứ mà anh săn bắn được. Con King sẽ tìm được cỏ, cò n anh thì săn linh dương, nhưng nếu như anh không còn gì để bắn hạ chúng thì con King cũng không tài nào tóm được chúng đâu. 
Quả thực Xtas có nhiều chuyện phải lo lắng, vì hiện nay, khi con voi đã thuần và thân thiết với lũ trẻ, thật khó có thể bỏ mặc nó phải chết đói, cò n giải thoát cho nó thì có nghĩa là phải tiêu phí phần lớn đạn dược và đưa bản thân mình vào chỗ chết không lối thoát. 
Chính vì thế Xtas trì hoãn việc đó từ ngày này sang ngày khác, cứ tối tối em lại tự nhủ: “Có thể ngày mai mình sẽ tìm ra được cách gì chăng?”. Trong khi đó, thêm vào nỗi lo này là những điều lo lắng khác. Trước hết, Cali bị ong dại ở phía hạ lưu dòng sông đốt cho tệ hại. Nó được một con chim nhỏ màu xám xanh nổi tiếng ở Phi châu được gọi là chim ăn ong dẫn tới với đàn ong. Cậu bé da đen vốn lười không hun khói tổ ong thật kĩ, nên mặc dù mang được mật về nhưng bị ong đốt sưng vù mặt mũi đến nỗi bị ngất đi sau chừng một tiếng đồng hồ. Cô Mdimu Tốt, với sự giúp đỡ của Mêa phải rút từ người nó ra những chiếc vòi ong cho tới tận chiều, rồi sau đó dùng đất nhào nước do Xtas chuẩn bị sẵn đắp lên người nó. Tuy thế, đến gần sáng cậu bé da đen cứ ngỡ như chết đến nơi. May thay, sự chăm sóc tận tình và cơ thể cường tráng của nó đã chiến thắng nỗi nguy, song cũng phải sau mươi ngày trời nó mới lại sức. 
Chuyện thứ hai là chuyện lũ ngựa. Trong thời gian Cali bị ốm, Xtas phải chăn và đưa ngựa đi uống nước, em để ý thấy chúng bị gầy sụt đi nhanh chóng. Không thể nào giải thích là do thiếu thức ăn, vì có mưa nên cỏ mọc lên rất cao, chung quanh thừa mứa các loại cỏ ngon lành. Vậy mà lũ ngựa cứ héo hon đi. Vài ngày sau, lông chúng rụng, mắt mờ hẳn, từ mồm chúng dãi dớt chảy ra. Cuối cùng chúng bỏ ăn, chỉ uống rất nhiều nước, dường như bị sốt vậy. 
Khi Cali khỏe lại, chúng chỉ còn là hai bộ xương. Thằng bé chỉ cần nhìn chúng đã hiểu ngay có chuyện gì xảy ra. 
- Ruồi tse tse! - Nó bảo Xtas - Chúng sẽ chết thôi. 
Xtas cũng hiểu, vì ngay từ hồi ở Port Xaiđơ em đã nhiều lần nghe nói tới giống ruồi Phi châu được gọi là tse tse, giống ruồi là thảm họa cho những vùng mà chúng sinh sôi nảy nở vĩnh viễn. 
Người da đen vẫn không nuôi súc vật có sừng, nhưng ở những nơi nào bọn trâu bò phát triển tự nhiên do những điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thì chúng lại bị chết. Bị ruồi tse tse đốt, ngựa, lừa hay bò gầy sụt đi và bị chết trong vòng chục ngày, đôi khi chỉ trong vài ngày. Bọn súc vật trong vùng cũng hiểu được nỗi nguy hiểm đang đe dọa chúng, vì thường thường cả đàn trâu đang ở chỗ uống nước hoảng sợ lồng lên chạy tứ tán khi nghe thấy tiếng kêu vù vù của loài ruồi này. 
Lũ ngựa của Xtas đã bị ruồi đốt. Giờ đây ngày ngày Cali xát vào mình chúng và vào mình con lừa một thứ cỏ có mùi đặc biệt giống như mùi hành mà nó tìm trong rừng. Nó nói rằng mùi cỏ này sẽ xua đuổi ruồi tse tse, song mặc dù có thứ thuốc đó, lũ ngựa vẫn cứ gầy sụt đi. Xtas lo sợ nghĩ đến những gì sẽ xảy ra khi bọn súc vật này gục ngã. Làm sao có thể mang theo đồ đạc, Nen, cái chăn, cái lều và nồi niêu xoong chảo? Bao nhiêu thứ như thế, họa chăng chỉ có King là đủ sức mang. Nhưng để giải thoát cho King cần phải dùng ít nhất hai phần ba số đạn. 
Càng ngày càng có nhiều nỗi lo lớn hơn đè nặng lên đầu Xtas, giống như những đám mây đen đang không ngừng trút mưa xuống rừng. Và cuối cùng là tai họa lớn nhất là bệnh sốt rét đã đến, bên cạnh nó những thứ khác trở nên nhỏ bé.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 30

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Một hôm, trong bữa ăn tối, Nen cầm một miếng thịt đưa lên miệng, đột nhiên đẩy ra dường như kinh tởm rồi nói: 
- Hôm nay em không thể nuốt nổi đâu. 
Được Cali cho biết nơi có tổ ong và hiện ngày nào cũng đi hun khó i để kiếm mật ong, Xtas cho rằng chắc cô bé đã ăn quá nhiều mật ong trong ngày, vì thế em không lưu ý lắm tới việc cô bé không muốn ăn. Song lát sau, cô bé đứng dậy và bắt đầu bước vội vã chung quanh đống lửa thành những vòng mỗi lúc một rộng hơn. 
- Đừng đi xa quá, cậu bé gọi theo, - nếu không nhỡ có con gì nó vồ em đấy. 
Thực ra cậu bé không sợ gì cả, vì sự có mặt con voi - điều mà các loài thú khác cảm thấy được cũng như tiếng rống của nó - tiếng rống vang tới những cặp tai thính nhạy của chúng - sẽ khiế n cho chúng giữ một khoảng cách thích đáng cách chỗnày. Điều đó bảo đảm an toàn cho người cũng như ngựa, vì ngay cả những con thú ăn thịt hung tợn nhất trong rừng như sư tử, báo và beo cũng không muốn đụng độ với voi, và tốt nhất là không đến quá gần cặp ngà và cái vòi voi. 
Tuy nhiên khi cô bé tiếp tục đi vòng vòng mỗi lúc một hấp tấp hơn, Xtas bèn đi theo sau và hỏi: 
- Ê, con thiêu thân nhỏ này, sao cứ bay vòng quanh ngọn lửa thế? 
Em hỏi với giọng hãy còn vui vẻ, nhưng đã lo lo, và nỗi lo của em tăng lên khi Nen trả lời: 
- Em không biết nữa. Hôm nay em không thể ngồi yên một chỗ được. 
- Em làm sao thế? 
- Em cứ thấy khó chịu lạ lạ thế nào ấy... 
Tựa đầu vào ngực anh gần như thú nhận một lỗi lầm, cô bé kêu lên với giọng cam chịu nghèn nghẹn nước mắt. 
- Anh Xtas, có thể em bị ốm mất rồi. 
- Nen! 
Cậu bé đặt tay lên trán Nen, cái trán vừa khô vừa lạnh toát. 
Cậu bồng Nen lên tay và mang lại phía đống lửa. 
- Em có thấy lạnh không? - Dọc đường cậu hỏi. 
- Cả lạnh, cả nóng, nhưng lạnh nhiều hơn... 
Răng cô bé đánh vào nhau lập cập, thân mình rùng rùng những đợt run. Xtas không còn nghi ngờ gì nữa: cô bé đã bị sốt rét. 
Em bèn bảo Mêa ngay tức khắc đưa Nen vào trong hốc cây gỗ, cởi quần áo ngoài và đặt nằm, rồi đắp lên người cô bé tất cả những gì có thể đắp được, vì em đã trông thấy ở Kháctum và Phasôđa những người bị sốt rét đôi khi trùm cả những tấm da cừu lên người cho ra mồ hôi. Em quyết định sẽ thức ngồi bên Nen suốt đêm và cho cô bé uống nước ấm pha mật ong. Nhưng thoạt đầu cô bé không muốn uống nước. Trong á nh sáng cây đèn treo bên trong thân cây, Xtas nhìn thấy đôi đồng tử long lanh của cô bé. Một lát sau cô bé bắt đầu kêu nóng, nhưng lại run bần bật dưới tấm chăn và nệm. Tay và trán Nen vẫn lạnh ngắt, nhưng nếu như Xtas biết được những triệu chứng của bệnh sốt rét, thì qua những cử động rất không yên của cô bé, em có thể đoán ra rằng cô bé bị sốt rất cao. Em kinh hoảng khi nhận thấy rằng hễ Mêa mang nước nóng vào, cô bé nhìn Mêa dường như ngạc nhiên, thậm chí sợ hãi và hình như không nhận ra Mêa nữa. Tuy nhiên Nen vẫn nói chuyện hoàn toàn tỉnh táo với em. Cô bé bảo rằng không thể nằm được và xin em cho phép đứng dậy chạy, lúc thì cô bé lại hỏi xem em có giận cô hay không vì cô đã ốm, và khi em quả quyết rằng không giận, cô bé nhắm nghiền mắt, để tràn ra hai giọt lệ đang tràn ngập trong mắt và nói rằng sáng ngày mai sẽ lại khỏe mạnh thôi. 
Tối hôm đó, nói đúng hơn là đêm hôm đó, con voi dường như cũng không yên một cách kì lạ, nó cứ rống lên liên tục, tiếng rống khiến con Xaba bật lên sủa. Xtas để ý thấy rằng chuyện đó khiến người ốm khó chịu, nên em ra khỏi hốc cây để làm cho hai con vật im tiếng đi. Với Xaba thì dễ, nhưng khó lòng bắt con voi phải im lặng, em bèn mang theo mấy quả mít để ném cho voi, bịt miệng nó một thời gian. Khi quay về, trong ánh sáng ngọn lửa, em trông thấy Cali đang mang một súc thịt khô trên vai đi về phía bờ sông. 
- Cậu làm gì thế, định đi đâu đấy? - Em hỏi thằng bé da đen. 
Thằng bé da đen dừng lại và khi Xtas tiến đến gần, nó nói với vẻ bí mật: 
- Cali đi tới một cây khác để hiến thịt cho Mdimu Ác. 
- Sao thế? 
- Để Mdimu Ác không giết chết Mdimu Tốt. 
Nghe thấy thế, Xtas muốn đáp lại điều gì, song nỗi xúc cảm khiến em nghẹn lời, em nghiến chặt răng và im lặng bước đi. 
Khi em trở vào trong thân cây, Nen đang nằm nhắm nghiền mắt, tay cô bé đặt trên tấm chăn run rẩy rất mạnh, nhưng hình như cô đã thiếp đi. Xtas ngồi xuống bên Nen, sợ Nen thức giấc, em ngồi yên không động đậy một hồi lâu. Mêa ngồi phía bên kia chốc chốc lại sửa miếng ngà voi cài trên tai, để bằng cách đó chống lại cơn buồn ngủ. Tất cả hoàn toàn im lặng, chỉ có từ phía hạ lưu sông vọng về tiếng kêu của ếch nhái và tiếng cóc buồn thảm. 
Thốt nhiên Nen ngồi bật dậy trên tấm đệm: 
- Anh Xtas ơi! 
- Anh đây, Nen. 
Còn cô bé, run rẩy như một chiếc lá nhỏ trước gió, bắt đầu sờ soạng lần tìm bàn tay em và lắp bắp, lắp đi lắp lại: 
- Em sợ, em sợ lắm, anh đưa tay cho em! 
- Đừng sợ, anh ở bên em đây mà! 
Xtas nắm chặt lấy tay Nen, bàn tay lúc này nóng như lửa, em không biết phải làm gì, chỉ hôn mãi hôn mãi lên bàn tay gầy guộc tội nghiệp ấy mà thôi. 
- Đừng sợ em, Nen, em đừng sợ! 
Rồi em cho cô bé uống nước pha mật đã nguội. Lần này Nen uống ừng ực, tay ôm chặt lấy cái cốc khi Xtas muốn cất cốc đi. 
Chất nước mát hình như khiến cho Nen tỉnh lại. 
Im lặng. Nhưng nửa giờ sau, Nen lại ngồi bật dậy, trong đôi mắt mở rộng của cô bé ánh lên một nỗi hãi hùng ghê gớm. 
- Anh Xtas! 
- Sao thế, em? 
- Sao Ghebơrơ và Khamix lại cứ đi vòng quanh cây và nhòm vào chỗ em thế anh? - Cô bé hỏi bằng giọng đứt quãng. 
Trong một thoáng Xtas ngỡ như hàng nghìn con kiến chạy rân rân khắp người. 
- Em nói gì thế? - Cậu bé thốt ra - Ở đây đâu cóai khác. Đó là Cali đang đi vòng quanh cây đấy thôi. 
Song cô bé cứ nhìn vào cái lỗ đen ngòm, răng vừa đánh lập cập vừa kêu lên: 
- Cả bọn Bêđuin nữa! Sao anh lại giết chúng nó? 
Xtas quàng tay ôm lấy Nen ấp vào ngự c mình: 
- Em biết rõ tại sao! Đừng nhìn về phía đó! Đừng nghĩ tới chuyện đó nữa! Chuyện đó lâu quá rồi mà! 
- Vừa hôm nay, vừa hôm nay thôi! 
- Không, Nen, lâu rồi mà!...Chuyện đã lâu rồi, nhưng nay như sóng bị bờ phản hồi, nó lại quay về làm kinh hoàng đầu óc đứa bé. 
Mọi lời yên ủi dường như vô hiệu. Mắt Nen mở trừng trừng mỗi lúc một to hơn. Tim cô bé đập gấp gấp tưởng như chỉ một lát nữa sẽ vỡ tung ra mất. Rồi cô bé bắt đầu vùng vẫy quằn quại như cá bị vứt lên cạn và cứ thế cho tới gần sáng. Mãi đến trước khi trời sáng, sức cô bé mới hoàn toàn bị kiệt quệ, đầu cô ngả xuống gối. 
- Em mệt quá, mệt quá! - Cô lắp bắp. - Anh Xtas, em đang rơi xuống, rơi xuố ng sâu quá. 
Rồi cô bé nhắm nghiền mắt lại. 
Thoạt tiên, Xtas kinh hoảng vì nghĩ rằng Nen đã chết. 
Nhưng đó chỉ là kết thúc cơn sốt đầu tiên của bệnh sốt rét Phi châu khủng khiếp thường được mệnh danh là “sốt chết người”. 
Bình thường người lớn khỏe mạnh chỉ chịu được hai cơn, cho tới nay chưa ai chịu nổi cơn thứ ba. Khách bộ hành thường kể chuyện đó ở Port Xaiđơ, ở nhà ông Rôlixơn, cònnhững nhà truyền giáo quay trở về châu Âu mà ông Tarcôpxki tiếp ở nhà mình, còn nói đến bệnh này nhiều hơn nữa. Cơn sốt thứ hai sẽ tới sau vài hay mươi ngày, còn nếu cơn sốt thứ ba không quay lại trong vòng hai tuần lễ thì nó sẽ không phải là cơn sốt chết người, vì khi đó nó sẽ được tính thành cơn sốt đầu tiên cho vòng hai của căn bệnh. Xtas biết rằng thứ thuốc duy nhất có thể làm dứt hay đẩy lùi cơn sốt là một liều kí ninh thật cao, nhưng em không còn lấy một chút kí ninh nào trong tay cả. 
Trong lúc này, khi thấy Nen vẫn còn thở được, em tạm yên lòng phần nào và bắt đầu cầu nguyện cho cô bé. Trong khi đó, mặt trời lên từ sau những khối đá của khe núi và một ngày mới bắt đầu. Con voi đã bắt đầu đòi bữa sáng, từ phía đầm nước được con sông tạo nên vang lên tiếng kêu của các loài chim nước. Muốn săn lấy vài con chim pentácca để nấu súp cho Nen, cậu bé cầm lấy khẩu súng bắn đạn chì đi dọc sông về phía những bụi cây cao mà lũ chim hay đỗ để ngủ đêm. Nhưng do thiếu ngủ, đầu óc lại đang vướng bận vì căn bệnh của Nen, nên cả một đàn chim pentácca nối nhau luồn ngang qua mặt em đi về phía máng nước uống mà em hoàn toàn không nhận ra. Thực ra, cũng vì em đang tiếp tục cầu nguyện. Em nghĩ tới việc đã giết chết Ghebơrơ, Khamix và bọn Bêđuin, và vừa ngước mắt lên nhìn trời vừa nói qua cổ họng đã nghẹn đi vì nước mắt: “Chính con đã làm điều đó vì Nen, lạy Chúa, vì Nen! Vì con không thể giải thoát cho em bằng cách nào khác, nhưng nếu đó là tội lỗi, thì xin Chúa hãy trừng phạt con, xin Chúa hãy cho em được khỏe lại!...”. 
Dọc đường em gặp Cali, thằng bé đi xem thử cái Mdimu Ác đã ăn số thịt mà hôm qua nó hiến chưa. Cậu bé da đen yêu cô bé, cũng cầu nguyện cho cô, nhưng theo một cách thức hoàn toàn khác hẳn. Cậu hứa với cái ma ác rằ ng nếu như cô bé khỏe lại, thì hàng ngày cậu sẽ mang tới cho ma một súc thịt, còn nếu cô bé chết, thì mặc dù sợ cái ma và biết chắc rằng sau đó sẽ phải chết, nhưng trước tiên cậu sẽ lột da cái ma để cho cái ma ác nhớ đời! Cậu bé được cổ vũ rất nhiều, vì miếng thịt hiến tế hôm qua đã biến mất tăm. Cũng có thể một chú lang núi nào đó đã cuỗm đi mất, nhưng cũng có thể là chính cái Mdimu Ác đã lấy đi trong khi đội lốt thành con lang núi cũng nên. 
Cali thông báo cho Xtas biết chuyện tốt lành đó, song cậu bé cứ nhìn nó chòng chọc hình như không hiểu nó nói gì, rồi tiếp tục bước đi. Qua những lùm cây, không thấy lũ chim pentácca đâu, em bèn tiến ra sông. Bờ sông mọc nhiều cây cao, trên cành rủ xuống lòng thòng những chiếc tổ chim dồng dộc giống chim xinh xẻo màu vàng có cặp cánh đen trông như những đóa hoa hồng to lớn, nhưng lại có màu giấy xám. Tại một chỗ, dòng sông hình thành một cái vùng rộng chừng vài mươi bước chân mọc đầy cây cói giấy. Trong đó dầy đặc các loài chimnước. Có cò, giống cò hệt như cò ở châu Âu chúng ta, cùng những con cò có cái mỏ lớn uốn thành hình lưỡi câu, cả những con chim đen tuyền như nhung với cặp chân đỏ như máu, cả chim hồng hạc, cả dang dang, những con bồ các màu trắng có đôi cánh hồng và những cái mỏ trông giống những chiếc muôi, cả loài sếu có lông ngai trên đầu, những con dẽ giun lanh lẹn và xám như chuột chạy đi chạy lại, trông như những bóng ma rừng, trên những đôi chân dài mảnh khảnh như cuộng rơm. 
Xtas bắn được hai con vịt to lông màu nâu tía tuyệt đẹp, và giẫm lên những con bướm trắng chết xác phủ đầy bờ sông, em dòm kĩ xem ở những vũng cạn có cá sấu hay không rồi lội qua nhặt lấy những con chim săn được. Dĩ nhiên, tiếng súng khiến lũ chim hoảng sợ bay đi, chỉ còn lại mỗi hai con chim cò già đang đứng trầm mặc trên mặt nước cách đấy chừng mươi bước chân, trông giống như hai cụ già với cái đầu hói nằm thụt giữa hai vai. Hai con chim này hoàn toàn không thèm cử động tí nào. Cậu bé đứ ng nhìn một lúc những túi thịt xấu xí thõng thẹo treo trên ức chúng, rồi khi thấy lũ ong bò vẽ bắt đầu quần mỗi lúc một dày trên đầu, em quay trở về trại. 
Nen hãy còn đang ngủ, nên sau khi giao hai con vịt cho Mêa, Xtas ngả người xuống đệm và ngủ một giấc say sưa. Mãi đến trưa chúng mới tỉnh giấc - em trước, Nen sau. Cô bé cảm thấy mạnh hơn chút ít, và sau khi được nồi xúp chim đặc và khỏe người làm tăng thêm sức, Nen đứng dậy bước ra khỏi thân cây vì muốn được trông thấy King và mặt trời. 
Mãi tới bấy giờ, trong ánh nắng mặt trời mới có thể trông thấy rõ những dấu vết mà một đêm sốt cao đã để lại trên người cô bé. Da Nen vàng nghệ và trong suốt, môi tái xám, mắt thâm quầng, còn nét mặt thì tái đi. Thậm chí đến con người cô bé nom cũng nhợt nhạt hơn thường lệ. Và ngượ c với những lời đoan chắc của cô với Xtas, Nen cảm thấy chưa thật khỏe - mặc dù sau khi thứ c giấc cô bé đã húp hết một cốc xúp thịt to tướng, nhưng khó nhọc lắm mới tự đi tới bên khe núi được, Xtas tuyệt vọng khi nghĩ tới đợt tấn công thứ hai của cơn sốt mà em không còn có tí thuốc nào cũng không có phương tiện nào ngăn chặn được. 
Trong khi đó mưa cứ rơi ướt đất mỗi ngày hàng chục đợt, khiến cho độ ẩm của không khí tăng lên.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 31

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Bắt đầu những ngày chờ đợi nặng nề và đầy lo âu. Mãi một tuần sau, cơn sốt thứ hai mới bắt đầu, không dữ dội như cơn trước, nhưng sau đó, Nen lại càng cảm thấy yếu đi nhiều hơn. Cô bé gầy và xanh xao đến nỗi dường như chỉ còn là một cái bóng mà thôi. 
Ngọn lửa sống leo lắt yếu ớt trong cô bé, tưởng chừng như chỉ cần khẽ thổi cũng khiến cho nó tắt đi hoàn toàn. Xtas hiểu rằng tử thần không cần phải chờ tới cơn sốt thứ ba mới có thể bắt Nen mang đi, mà đang chờ đợi từng ngày, từng giờ một. 
Bản thân cậu bé cũng gầy sút đi và tái xanh, vì nỗ i bất hạnh vượt quá sức lực và trí tuệ của cậu. Nhìn khuôn mặt như nặn bằng sáp của Nen, em nhủ thầm hàng ngày: “Mình đã trông nom con bé như con ngươi trong mắt như thế đó, để giờ đây chôn nó trong rừng”. Và em hoàn toàn không thể hiểu nổi, tại sao mọi sự lại phải như vậy. Chốc chốc em lại tự trách mình đã không chăm nom Nen thật cẩn thận, không đối xử thật hết lòng với cô bé, và trong những lúc như thế, một nỗi ân hận giày vò tim em, khiế n em chỉ muốn cắn xé những ngón tay của mình. Nói cho cùng, có nhiều bất hạnh quá chừng. 
Bây giờ, Nen gần như ngủ thiêm thiếp suốt ngày, và rất có thể chính điều đó đã giữ cho cô bé còn sống thoi thóp. Vài lần một ngày, Xtas phải đánh thức cô bé dậy để bón cho ăn. Vào những lúc đó, nếu trời không mưa, Nen yêu cầu em mang cô ra ngoài trời, vì cô bé không còn tự mình bước đi được nữa. Nhiều khi cô bé thiếp đi trên tay em. Cô bé cũng tự biết rằng mình ốm nặng lắm và rất có thể sẽ chết ngày một ngày hai. Trong những lú c tỉnh táo nhất, cô bé nói với Xtas về chuyện đó, bao giờ cũng khóc nức nở, vì cô sợ chết. 
- Thế là em chẳng còn được về với ba em nữa rồi, - một lần cô bé nói, - nhưng anh phải nói với ba rằng em rất tiếc và bảo ba đi tới đây thăm em nhé... 
- Em sẽ về mà, - Xtas đáp.Nhưng cậu không thể nói gì thêm, bởi chỉ muốn gào lên thật to. 
Còn Nen vẫn nói tiếp với giọng ngái ngủ, phải lắng tai mới nghe thấy: 
- Và thể nào ba cũng đến, còn anh cũng có khi nào đó anh sẽ đến, phải không anh?... 
Ý nghĩ ấy khiến cô bé mỉm một nụ cười, làm rạng ngời khuôn mặt gầy gò, nhưng rồi sau đó cô lại cất tiếng nói còn khẽ hơn nữa: 
- Nhưng em tiếc quá... 
Nói thế xong, cô bé ngả đầu vào vai anh khóc, còn cậu bé cố chế ngự nỗi đau của mình, ghì chặt cô vào ngực và tha thiết đáp: 
- Nen, anh sẽ không trở về nếu thiếu em, và...anh cũng không biết sẽ làm gì trên đời nữa, nếu không có em! 
Im lặng bao trùm, Nen lại ngủ thiế p đi. Xtas mang cô bé vào trong ruột cây, khi em vừa bước ra ngoài thì từ chóp mũi đất Cali chạy lại, vung vẩy hai tay và gọi to, vẻ mặt đầy tức giận và sợ hãi: 
- Ông lớn! Ông lớn ơi! 
- Gì thế? - Xtas hỏi.Cậu bé da đen đưa tay chỉ về phía Nam, nói: 
- Khói! 
Xtas đưa tay che mắt, cố căng mắt nhìn về phía ấy và trông thấy quả thực có một cột khói bay lên trong ánh mặt trời đỏ rực đã xuống thấp, ở giữa rừng, giữa hai rặng núi khá cao phía xa xa. 
Cali run toàn thân vì nó hãy còn nhớ rất rõ kiếp sống nô lệ hãi hùng trong tay bọn phiến loạn, nó tin rằng, nơi đó chính là trại của bọn chúng. Xtas cũng cho rằng đó không phải là ai khác ngoài gã Xmainơ, và thoạt tiên em cũ ng rụng rời tay chân. Chỉ còn thiếu có chuyện đó nữa thôi! Bên cạnh cơn ốm thập tử nhất sinh của Nen lại thêm bọn phiến loạn. Lại nô lệ, lại quay về Phasôđa hay Kháctum dưới bàn tayMahơđi, hay dưới ngọn roi của Ápđulahi! 
Nếu như bọn chúng tóm được lũ trẻ, Nen sẽ chết ngay trong ngày đầu tiên, còn em thì phải làm nô lệ trong những ngày còn lại trên đời. Nếu có lúc nào đó em trốn thoát được đi chăng nữa, thì sống mà làm gì, tự do mà làm gì nếu thiếu Nen? Làm sao có thể nhìn vào mắt cha, hoặc ông Rôlixơn, khi mà bọn phiến loạn ném cô bé sau lúc nhắm mắt cho lũ linh cẩu xé xác, còn em thì không biết nói với mọi người nấm mồ cô bé nằm ở đâu? 
Nhữ ng ý nghĩ ấy vụt qua đầu em như những tia chớp. Bỗng nhiên em cảm thấy có ý muốn không cưỡng lại nổi là được nhìn Nen, và liền đi về phía cái cây. Trên đường đi, em bảo Cali dập tắt lửa và chớ có đốt lên về đêm, rồi bước vào trong ruột cây. 
Nen đang thức và cảm thấy dễ chịu hơn. Cô bé lập tức chia xẻ với Xtas điều ấy. Xaba nằm bên cạnh cô bé và sưởi ấm cô bằng tấm thân to lớn của mình, còn cô bé thì vuốt nhẹ đầu con chó và mỉm cười khi nó há mồm đớp những cái bụi vỏ cây mục bay lượn trong chùm ánh sáng của những tia nắng mặt trời cuối cùng ban chiều rọi vào trong cây. Hẳn là cô bé thanh thản hơn, vì lát sau cô quay sang hỏi Xtas với nét mặt khá tỉnh táo: 
- Mà cũng có thể em sẽ không chết đâu, anh nhỉ? 
- Chắc chắn là em sẽ không chết. - Xtas đáp. - Sau cơn sốt thứ hai mà em cảm thấy khỏe hơn thì cơn thứ ba sẽ không tới nữa đâu. 
Cô bé hấp háy mi mắt dường như đang suy nghĩ điề u gì rồi nói: 
- Giá như em có cái thứ thuốc đắng, thứ thuốc đã làm em dễ chịu đến thế sau cái đêm gặp bọn sư tử ấy - anh nhớ không? Thì chắc chắn em sẽ không nghĩ gì tới cái chết đâu, không nghĩ một tí ti nào bằng ngần này nữa anh này! 
Và cô bé bấm trên đầu ngón tay nhỏ bé để chỉ rõ khi ấy mình sẽ sẵn sàng bao nhiêu để chết. 
- Ôi! - Xtas bật lên. - Anh sẵn sàng đổi hết để lấy một chút kí ninh. 
Em nghĩ rằng, giá như có nhiều thuốc, thì em sẽ cho Nen uống ngay hai viên một lúc, rồi sau đó dù ng tấm chăn bọc Nen vào, đặt lên lưng ngựa, trước mặt em, rồi lao thẳng về phía ngược hướng với trại của bọn phiến loạn. 
Mặt trời lặn xuống, khu rừng bỗng chìm vào bóng tối. 
Cô bé trò chuyện chừng nửa giờ nữa rồi ngủ thiếp đi, còn Xtas tiếp tục suy nghĩ về bọn phiến loạn và thuốc kí ninh. Cái đầu đang lo lắng nhưng rất tháo vát của em bắt đầu làm việc và vạch ra những kế hoạch khác nhau, cái sau bạo dạn và liều lĩnh hơn cá i trước. Đầu tiên em cân nhắc xem làn khói phía Nam có nhất thiết phải bốc lên từ trại của gã Xmainơ hay không. Rất có thể đó chính là bọn phiến loạn, nhưng cũng có thể đó là những người Ả Rập xứ duyên hải, những người đi sâu vào lục địa để lùng ngà voi hoặc săn nô lệ. Bọn họ không dính dáng tới bọn phiến loạn, vì chúng khiến cho việc buôn bán của họ bị cản trở. Cũng có thể đó lại trại của những người Abixinia hoặc một làng dân da đen sơn cước nào đó mà bọ n săn người chưa sục tới. Liệu có nên tự mình đi thám thính xem cho chắc chắn hay không? 
Người Ả Rập ở Dandiba, từ vùng lân cận Bagamôiô, từ Vit hay từ Mombaxa, và nói chung từ vùng duyên hải đến, là những người luôn tiếp xú c với người da trắng, nên biết đâu họ sẽ chẳng đưa cả hai đứa tới một cái cảng nào đó gần đó nhất để đổi lấy một phần thưởng lớ n? Xtas biết rõ rằng em có thể hứa một phần thưởng thật to và người ta sẽ tin vào lời hứa của em. Cũng có một ý nghĩ kháclàm cậu xúc động sâu sắc. Ở Kháctum em đã trông thấy nhữ ng tín đồ Hồi giáo nhất là những người vùng Nubia cũng bị sốt rét gần như những người da trắng - và họ chữa bệnh bằng kí ninh mà họ tướcđoạt được của dân châu Âu, hoặc đã mua với giá cắt cổ nếu thuốc này được giấu giếm trong tay những kẻ bội giáo người Hy Lạp hay Coptơ. Vì vậy, có thể hi vọng rằng, những người Ả Rập vùng duyên hải chắc chắn có kí ninh. 
“Mình sẽ đi, - em tự nhủ, - mình sẽ đi vì Nen!”. 
Càng cân nhắc kĩ tình thế hiện tại, em lại càng tin tưởng rằng cho dù đó là toán quân của gã Xmainơ đi chăng nữa, thì cũng nên tới đó. Em nhớ lại rằng, vì quan hệ giữa Ai Cập và Xuđan cắt đứt hoàn toàn, nên có lẽ Xmainơ không hay biết gì về chuyện bắt cóc bọn trẻ từ Phaium. Mụ Phátma không thể liên hệ được với gã, chuyện bắt cóc chỉ là ý đồ của mụ ta, được thực hiện với sự trợ sức của Khamix, con trai Khađigi, cùng với Ghebơrơ và hai tên Bêđuin. Những kẻ này không dính dáng gì tới Xmainơ vì cái lí do đơn giản là gã chỉ biết có mỗi một mình Khamix mà thôi, những tên kia thì gã chưa từng gặp bao giờ. Gã chỉ quan tâm tới những đứa con của gã và mụ Phátma thôi. Mà cũng có thể gã đang nhớ chúng và sẽ vui sướng được quay trở lại với vợ con nếu như việc phục vụ dưới trướng Mahơđi đã khiến gã chán ngán. Dưới trướng Mahơđi rõ ràng gã đã chẳng làm nên trò trống gì to tát, bởi lẽ thay vì được thống lĩnh những đội quân hùng hậu hoặc được giao cho trị vì một vùng đất rộng lớn nào đó thì gã lại phải đi săn bắt nô lệ ở mãi một chốn thâm sơn cùng cốc tận bên dưới Phasôđa. “Mình sẽ nói với gã” - Xtas nghĩ thầm: “Nếu như ông đưa chúng tôi tới được một cái cảngnào đó trên bờ biển Ấn Độ Dương, hoặc nếu ông cùng chúng tôi quay trở về Ai Cập, chính phủ sẽ tha thứ cho ông mọi lỗi lầm, ông sẽ được sum họp với bà Phátma và bọn trẻ, ngoài ra, ngài Rôlixơn sẽ làm cho ông trở nên giàu có, còn nếu không, ông sẽ không bao giờ còn được trông thấy Phátma và bọn trẻ nữa đâu!”. 
Và Xtas tin rằng, gã Xmainơ sẽ phải suy nghĩ kĩ trước khi từ chối một hiệp ước như thế. 
Tất nhiên, tất cả những chuyện đó không phải đều an toàn, thậm chí có thể mất mạng nữa, nhưng cũng có thể trở thành cái phao cứu mạng trong vực thẳm muôn trùng này của Phi châu. Rốt cuộc, Xtas đâm ra ngạc nhiên vì sao lú c đầ u khả năng chạm trán với gã Xmainơ lại có thể khiến cho em kinh hoàng đến thế - và vì muốn cứu Nen cấp tốc, em quyết dịnh ngay trong đêm nay sẽ lên đường. 
Song nghĩ thì dễ hơn thực hiện. Ngồi bên đống lửa rừng rực, sau hàng rào gai giữa rừng đêm là một chuyện, còn lao mình vào trong đêm thẳm, trong đám cỏ cao, nơi đó giờ này lũ sư tử, báo, beo, không kể tới linh cẩu và lang núi đang săn mồi lại là một chuyện khác hẳn. Tuy nhiên em chợt nhớ lại lời của thằng bé da đen trong cái đêm nó bỏ đi tìm con Xaba, lúc trở lại đã nói với Xtas: “Cali sợ, nhưng vẫn đi!”. Và em cũng lặp lại y như thế: 
“Mình sợ, nhưng mình sẽ đi!”. 
Tuy vậy, nó cũng chờ cho đến khi trăng mọc, vì đêm hôm ấy rất tối, và khi rừng bàng bạc ánh trăng, em mới gọi Cali và bảo: 
- Cali, cậu hãy dắt con Xaba vào trong ruột cây, lấy gai rào kín lỗ cửa, rồi cù ng với Mêa, cậu hãytrông nom cô chủ thật cẩn thận, còn tớ sẽ đi xem thử những ai đang ở trong cái trại phía kia. 
- Ông lớn hãy mang theo Cali và khẩu súng để giết bọn thú giữ. Cali không ở nhà đâu. 
- Cậu phải ở nhà! - Xtas nói quả quyết. - Tớ cấm cậu không được đi theo tớ. 
Rồi em im lặng một lát, lúc sau mới cất giọng hơi trầm hơn nói tiếp: 
- Cali, cậu rất trung thành và chín chắn, nên tôi tin rằng cậu sẽ thực hiện được những gì tôi sẽ nói đây. Nếu như tôi không trở lại, mà cô chủ qua đời, thì cậu hãy để cô chủ lại trong lòng cây gỗ, nhưngdựng chung quanh cây một hàng rào cao, còn trên vỏ cây, cậu khắc một cái dấu lớn như thế này. 
Cầm lấy hai thanh tre, em đặt vuông gó c thành chữ thập. 
Rồi em nói tiếp: 
- Còn nếu như cô bé không chết mà tôi không quay trở lại, thì cậu sẽ thành kính và trung thành phục vụ cô chủ. Cậu sẽ đưa cô chủ tới chỗ dân tộc của cậu và nói với các chiến sĩ Vahima để họ cùngcô chủ đi mãi về phía Đông, đến tận Biển Lớn. Ở đó, cậu sẽ gặp những người da trắng, họ sẽ cho các cậu nhiều súng, thuốc đạn, chuỗi hạt cườm, đạn súng săn và vải vóc. Cậu hiểu không? 
Cậu bé da đen quỳ xuống trước mặt Xtas, ôm ghì lấy chân em, lặp đi lặp lại thảm thương: 
- Ô, bvana kubva! Trở lại, trở lại, trở lại! 
Xtas rất cảm động trước tình gắn bó của cậu bé da đen, nên cúi xuống, đặt tay lên đầu nó và bảo: 
- Đi vào trong cây đi, Cali,... Cầu Chúa ban phước lành cho cậu! 
Còn lại một mình, Xtas suy nghĩ một lúc nữa, xem có nên mang theo con lừa hay không. Nếumang đi thì an toàn hơn, vì sư tử châu Phi cũngnhư hổ Ấn Độ, khi gặp người cưỡi ngựa hoặc lừa, bao giờ cũng nhảy vào con vật trước, chứ không phải vào người. 
Nhưng em lại tự hỏi, trong trườnghợp như thế thì ai sẽ chở lều cho Nen, và chính cô bé sẽ cưỡi gì để đi? Sau khi cân nhắc, em từ bỏ ý định mang con lừa theo, và bắt đầu cất bước đi vào rừng thẳm. 
Trăng đã lên cao nên bầu trời sáng hơn. Nhưng những gian khó cũng ập đến ngay lập tức khi cậu bé bắt đầu dấn thân vào trong đám cỏ mọc cao đến nỗi một người cưỡi ngựa cũng có thể dễ dàng ẩn kín trong đó. Thậm chí cả ban ngày cũng không thể trông thấy gì trong ấy cách một bước chân, huống hồ là giữa đêm khuya, khi ánh trăng chỉ soi sáng ngọn cỏ, còn mọi thứ phía dưới đều chìm ngập trong bóng tối dầy đặc. Trong những điều kiện như thế rất dễ lạc đường, thay vì đi thẳng về phía trước rất có thể sẽ đi vòng. Xtas cảm thấy can đảm hơn khi nghĩ rằng, thứ nhất, khu trại mà em đang hướng tới chỉ ở cách mũi đất cùng lắm là ba hay bốn dặm Anh; hai nữa, khói bốc lên giữa hai ngọn đồi cao, nên nếu còn trông thấy những ngọn đồi đó thì không thể lạc đường được. 
Nhưng cỏ, cây trinh nữ và xiêm gai đã che mất tất cả. May thay, cứ chừng vài mươi bước chân lại có một tổ mối nhiều cái cao tới hơn chục bộ. Xtas cẩn thận đặt súng dưới chân những tổ mối ấy rồi trèo lên đỉnh và khi trông thấy những ngọn đồi đen thẫm nổi bật trên nền trời, em lại tụt xuống đi tiếp. Em chỉ sợ khi nghĩ tới chuyện mây che mất vầng trăng và phủ kín bầu trời, khi ấy sẽ không biết ra sao, vì em sẽ như bị lạc xuống dưới âm phủ. Song đó cũng không phải là mối đe dọa duy nhất. Rừng thẳm trong đêm - trong sự tĩnh mịch nghe thấy rõ từng tiếng động, từng tiếng chân chạy, và ngay cả tiếng sột soạt, khi lũ sâu bọ trườn trong cỏ gây nên - quả thật là đáng sợ. Nỗi hãi hùng và sự đe dọa như rình rập trên rừng đêm. Xtas phải để ý đến mọi thứ, phải lắng tai nghe cảnh giác, phải nhìn quanh tứ phía, đầu óc phải căng lên như dây đàn, còn súng thì lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cứ chốc chốc lại cảm thấy như có con gì đó đang tiế n lại gần, đang rình mò theo, đang nấp sẵn. Thỉnh thoảng em nghe thấy tiếng cỏ xao động và tiếng chân bất thần của những con thú đang chạy đi. Em đoán rằng hẳn em đã làm kinh động đến một con linh dương, bọn này mặc dù đã đặt “lính canh” nhưng vẫn ngủ rất cảnh giá c, vì biết rằng trong bóng tối vào giờ này, không ít những con thú màu hoe hoe vàng đang đi săn mồi. Những cái gì kia to lớn đen thui dưới tán cây xiêm gai hình cái ô? Có thể đó là một tảng đá, mà cũng có thể là một con tê giác hay trâu rừng ngửi thấy hơi ngườiđã tỉnh thức và sắp sủa lao vào hú c. Ở kia, sau lùm cây đen đen có điểm sáng long lanh. Nào! Súng lênvai! Sư tử đấy! Không! Báo động hão rồi! Đó chỉ là hai con đom đóm, vì một đốm sáng bay vụt lên còn một đốm bay xuống cỏ như một ngôi sao rơi xiên. Không phải Xtas leo lên tổ mối chỉ là để nhìn xem mình đi có đúng hướng không, mà còn để lau cái trán đổ mồ hôi lạnh, để thở một chút và đợi cho trái tim bớt nhịp đập dập dồn. Ngoài ra, em cảm thấy mệt rã cả người, khó khăn lắm mới đứ ng vững trên đôi chân. 
Nhưng em vẫn tiến lên phía trước với ý nghĩ cần phải đi để cứu lấy Nen. Sau hai giờ đường, em tới một vùng mặt đất trải đầy những hòn đá nhỏ, nơi cỏ mọc thấp hơn trước và sáng hơn. Hai ngọn đồi vẫn in hình xa xa như trước, nhưng có một lèn đá chạy dài ngang trước mắt đã gần hơn, phía sau là một cái lèn đá nữa cao hơn, cả hai hình như bao quanh một thung lũng hay một khe núi, tương tự như cái khe đang giam giữ King. 
Đột nhiên, ở phía bên phải, cách chừng ba hay bốn trăm mét, Xtas nhìn thấy ánh lửa hồng phản chiếu trên vách đá. 
Em đứng sững lại. Tim đập dồn dập tưởng chừng có thể nghe thấy được giữa cái tĩnh mịch của đêm thanh. Em sẽ trông thấy ai ở dưới kia? Nhữngngười Ả Rập từ vùng biển phía đông chăng? Hay bọn phiến loạn của gã Xmainơ? Hay những người da đen hoang dã rời bỏ làng xóm quê hương đi trốn tránh bọn phiến loạn trong chốn núi thẳm rừng hoang này? Em sẽ gặp cái chết, sự nô lệ hay cứu vãn cho Nen đây? 
Cần phải xác minh điều đó. Em không thể và cũng không muốn thoái lui. Một giây sau em bắt đầu lần mò về phía đống lửa, bước đi thật khẽ, cố nín thở. Bước được chừng trăm bước, em nghe từ phía rừng có tiếng ngựa thở mạnh. Em đứng dừng lại. Trong ánh trăng, em tính được năm con ngựa. Số lượng đó quá ít đối với bọn phiến loạn, nhưng cũng có thể là số ngựa còn lại ẩn ở đâu đó trong đám cỏ cao. Em chỉ ngạc nhiên một điều là bên cạnh ngựa không thấy có người canh, và rằng những người canh nọ không đốt trên cao những đống lửa để xua đuổi các loài dã thú. Nhưng ơn Chúa, vì nhờ đó em có thể tiến lên được mà không bị trông thấy. 
Ánh lửa hồng trên vách đá mỗi lúc một rõ hơn. Chưa đầy mươi lăm phút sau, Xtas đã tới được chỗ đối diện với vách đá được chiếu sáng mạnh nhất, điều chứng tỏ là dưới chân vách đá ấy có đống lửađang cháy. 
Em bèn bò và trườn thật chậm đến rìa vách đá và nhìn xuống phía dưới. 
Vật đầu tiên đập vào mắt em là một cái lều to, trước lều là một cái giường vải dã chiến, trên đómột người mặc quần áo màu trắng kiểu châu Âu đang nằm. 
Một thằng bé da đen chừng mười hai tuổi đang chất thêm cành khô vào đống lửa, ánh lửa đang chiếu sáng vách đá và một đoàn người da đen đangngủ dọc theo vách đá về hai bên cửa lều. 
Trong chớp mắt, Xtas đã tụt theo sườn dốc xuống lòng khe núi.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 32

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Vì mệt và xúc động cậu bé đứng lặng đi, thở hổn hển, không thốt ra được lời nào trước con người đang nằm trên giường; người đó cũng im lặng nhìn em với vẻ kinh ngạc của một người nửa tỉnh nửa mê. 
Mãi sau ông ta mới gọi: 
- Nasibu, mày có đấy không? 
- Con đây thưa ông chủ! - Cậu bé da đen đáp lại. 
- Mày có trông thấ y ai không, ai đang đứng trước mặt ta đây? 
Trước khi cậu bé da đen kịp trả lời, Xtas đã nói ngay: 
- Thưa ngài, - em nói, tôi là Xtanixoáp Tarcôpxki. Cùng với tiểu thư Rôlixơn, tôi chạy thoát khỏi cảnh nô lệ từ tay bọn phiến loạn và chúng tôi đang náu trong rừng. Nhưng Nen đang ốm nặng, tôi cầu xin ngài hãy giúp đỡ. 
Người lạ mặt hấp háy mắt ngó em một lú c nữa, rồi đưa tay gạt ngang vầng trán. 
- Ta nghe thấy đây mà, không phải chỉ nhìn thấy không, - ông ta cất tiếng như tự nói với bản thân mình. - Đây không phải là ảo giác. Hả? Giúp đỡ à? Chính ta cũng đang cần giúp đỡ đây. Ta bị thương rồi. 
Bỗng nhiên ông giật mình, dường như vừa thoát khỏi giấc mơ, hoặc cơn bải hoải, nhìn cậu bé với vẻ tỉnh táo hơn, với ánh sung sướng long lanh trong mắt, rồi bảo: 
- Một đứa bé da trắng!... Ta còn được trông thấy một người da trắng đây mà!... Xin chào anh, dù anh là ai. Anh nói đến bệnh tật gì thì phải? Anh muốn gì ở ta? 
Xtas nhắc lại, rằng người ốm là Nen, con gái của ngài Rôlixơn, một trong các vị giám đốc kênh đào, rằng cô bé đã bị hai cơn sốt rét và chắc sẽ chết nếu như không có kí ninh để phòng cơn thứ ba. 
- Hai cơn, gay rồi đấy. - Người lạ đáp - Nhưng kí ninh thì ta có thể cho anh, bao nhiêu tuỳ ý anh. Ta có mấy lọ to, và chúng cũng chẳng giúp gì cho ta nữa. 
Nói thế, ông ra lệnh cho cậu bé Nasibu đưa cho mình một cái hộp sắt tây to tướng, hẳn là tủ thuốckhi đi đường, lấy từ trong đó ra hai lọ lớn đựng đầy một thứ thuốc trắng, đưa cho Xtas. 
- Đây là một nửa số ta có. Ngần này cũng đủ dùng ít ra là một năm... 
Xtas suýt nữa thì reo lên vì mừng rỡ, em cảm ơn ông ta, xúc động như chính em được cứu sống vậy. Người lạ mặt gật gật đầu rồi nói: 
- Được rồi! Ta là Linđe, người Thuỵ Sĩ, quê ở Duyrích... Hai ngày trước đây ta gặp tai nạn: mộtcon lợn rừng nơđiri húc ta bị thương nặng. 
Rồi quay sang phía thằng bé da đen, ông bảo: 
- Nasibu, nhồi cho ta tẩu thuốc. 
Và quay sang Xtas: 
- Về đêm ta bị sốt nhiều hơn và hơi bị choáng váng trong đầu. Nhưng hút một điếu thuốc sẽ làm cho đầu óc minh mẫn hơn. 
Anh bảo là các anh trốn thoát khỏi tay bọn phiến loạn và hiện đang ẩn náutrong rừng, có phải thế không? 
- Vâng, thưa ngài, cháu đã nói thế. 
- Thế các anh định làm gì? 
- Chạy đến Abixinia ạ. 
- Thế thì các anh sẽ rơi vào tay quân lính của Mahơđi mất thôi, hiện nhiều đơn vị quân của yđang tuần phòng suốt dọc biên giới. 
- Nhưng chúng cháu không thể làm gì khác hơn được ạ. 
- Ôi, giá như một tháng trước đây thì ta đã có thể giúp các cháu. Nhưng giờ đây ta chỉ còn lại cómỗi một mình, sống nhờ lượng Chúa và nhờ thằng bé da đen kia mà thôi. 
Xtas nhìn ông với vẻ ngạc nhiên. 
- Thế còn cái trại này ạ? 
- Đó là cái trại của tử thần. 
- Còn những người da đen này? 
- Họ đang ngủ và sẽ không bao giờ tỉnh dậy nữa. 
- Cháu không hiểu... 
- Bọn họ bị bệnh ngủ(1). Đó là những người thuộc vùng Hồ Lớn, nơi cái bệnh khủng khiếp này hoành hành liên tục, và tất cả bọn họ đều mắc phải thứ bệnh quái ác ấy, trừ những kẻ trước đó đã chết vì đậu mùa. Chỉ mỗi mình thằng bé này là còn sống sót với ta thôi... 
Bây giờ Xtas mới chợt nhận ra rằng khi em tuột xuống khe núi, không một người da đen nào nhổm dậy hay động đậy - trong khi họ trò chuyện, tất cả bọn họ đều ngủ: người thì tựa đầu vào vách đá, kẻ lại gục đầu xuống ngực. 
- Họ ngủ và không bao giờ tỉnh dậy nữa ư? - Emhỏi lại, dường như vẫn chưa thật hiểu điều vừa nghe thấy. 
Ông Linđe thốt ra: 
- Ôi, cả Phi châu này là một cái nhà xác!...Những lời tiếp theo của ông bị gián đoạn bởi tiếng vó ngựa, lũ ngựa sợ một cái gì đó trong rừng, nhảy chồm chồm trên hai chân bị buộc vào nhau, lần về phía mép thung lũng, muốn được xích lại gần lửa gần người! 
- Không có gì đâu, lũ ngựa đấy thôi! - người đànông Thuỵ Sĩ nói tiếp - Ta đã lấ y được ngựa của bọn quân lính Mahơđi vài tuần trước, khi ta đánh cho chúng tan tác. Bọn chúng có chừng ba trăm tên, có lẽ hơn thế. Nhưng bọn chúng phần nhiều chỉ có giáo mác, còn người của ta thì lại có súng trường rêmingtơn, số súng đang đặt gần vách đá kia, chúng cũng chẳng còn dùng được vào việc gì nữa rồi. Nếu cháu thiếu súng, hoặc đạn thì cứ lấy, bao nhiêu cũng được. Lấy cả ngựa nữa, cháu sẽ quay về với cô bạn đang ốm của cháu nhanh hơn. Con bé bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? 
- Tám tuổi ạ. - Xtas đáp. 
- Vậy ra hãy còn là một đứa trẻ con. Nasibu sẽ đưa cho cháu chè, gạo, cà phê và rượu vang... Trong số lương thự c cháu muốn thứ gì cứ lấy, và sáng mai hãy tới lấy thêm nữa. 
- Cháu nhất định sẽ quay trở lại để cảm ơn ngài một lần nữa với tất cả tấm lòng, và để đỡ đần cho ngài những gì cháu có thể làm được. 
Ông Linđe nói: 
- Thật dễ chịu dù chỉ được trông thấy một khuôn mặt người Âu. Nếu như sáng mai cháu đến sớm thì ta sẽ tỉnh táo hơn. Bây giờ cơn sốt lại kéo tới hành hạ ta rồi, ta trông thấy cháu thành hai người. Có thật hai người đang đứ ng trước mặt ta không? Không!... 
Ta biết chắc là chỉ có mỗi mình chá u, vàđó chỉ là do cơn sốt thôi... 
Ôi cái châu Phi này! 
Và ông nhắm nghiền mắt lại. 
Mười lăm phút sau, Xtas lên đường quay trở lại, rời cái trại kì lạ của bệnh ngủ và cái chết, lần này thì bằng ngựa. Đêm hãy còn sâu thẳm, nhưng em không còn phải để ý đến những mối nguy hiểm có thể sẽ gặp trong vùng cỏ cao nữa. Tuy vậy, em đi dọc theo gần sông, với dự tính rằng hai cái khe núi đều phải đổ ra sông. Nói cho cùng, quay trở về dễ dàng hơn nhiều, vì trong sự tịch mịch của đêm, tiếng thác nước vang đi rất xa, thêm vào đó, phía Tây bầu trời mây quang hẳn, và bên cạnh vầng trăng còn có ánh sáng hoàng đạo soi khá tỏ. Cậu bédùng mũi bàn chân đạp kiểu Ả Rập rộng bản thúc vào hông ngựa lao đi vun vút, vừa nhủ thầm trong lòng: “Sư tử và báo gấm mà hề chi! Ta đã có kí ninh cho cô em bé bỏng đây rồi!”. Chốc chốc, em lại đưa tay sờ nắn hai cái lọ, như muốn kiểm tra cho chắc xem quả thực có chúng trong tay không, và tất cả những điều này không phả i chỉ là một giấc mơ. Biết bao ý nghĩ và hình ảnh diễn qua óc em. Em như thấy người đàn ông Thuỵ Sĩ bị thương mà em vô cùng biết ơn, đồng thờ i chân thành hối hận rằng thoạt đầu trong khi nói chuyện, em đã ngỡ ông ta điên, em như thấy thằng bé Nasibu với cái sọ dừa tròn như một quả bóng, cùng những hàng người phu đang ngủ say và những họng súng rêmingtơn tựa vào vách đá, ánh lên trong lửa. Giờ đây em tin chắc rằng cuộc chiến đấu mà ông Linđe nói tới chính là cuộc chiến đấu với toán quân của gã Xmainơ, và đối với em có vẻ thật lạ lùng khi nghĩ rằng chính gã Xmainơ cũng có thể đã chết. 
Nhữ ng hình ảnh ấy hòa trộn không ngừng với những nghĩ suy về Nen. Em tưởng tượng thấy cô bé sẽ ngạc nhiên đến thế nào khi trông thấy cả một lọ thuốc kí ninh đầy, có thể cô bé coi em là phù thủycũng nên. “Ôi, - em tự nhủ, - giá như ta hè n nhát không dám tự mình đi xem thử làn khói đó bốc lên từ đâu, thì suốt đời ta không bao giờ có thể tha thứ nổi cho mình điều đó!”. 
Không đầy một tiếng đồng hồ sau, tiếng thác nướ c đã vang lên nghe rõ mồn một, và nghe cả tiếng ếch nhái, khiến Xtas đoán ra rằng đã về tới gần khoảng nước rộng nơi hôm trước em từng săn chim nước. Trong ánh trăng em còn nhận rõ những cái cây xa xa mọc trên bờ nước. Giờ thì cần phải thật cảnh giác, vì vùng nước đó đồng thời cũng là nơi uống nước mà mọi loài thú trong vùng đều phải tới, vì tại tất cả những nơi khác, bờ sông đều dốc đứng và khó xuống. Nhưng lúc này đêm đã quá muộn, lũ thú dữ hẳn là ẩn náu trong các hang đá sau những chuyến đi săn đêm. Con ngựa khẽ kêu lên rừ rừ khi ngửi thấy thấy mùi sư tử hay hùm beo hãy còn vương vất quanh đấy, nhưng Xtas đã vượt qua nơi đó không gặp trở ngại gì và một lúc sau em đã trông thấ y hình dáng đen sẫm của “Cracốp” đứng sừng sững trên mũi đất cao. Lần đầu tiên trong thời gian ở châu Phi, em có cảm giác như về tới nhà. 
Em ngỡ rằng sẽ gặp mọi người đang ngủ say, nhưng quên tính tới con Xaba, con chó cất tiếng sủa đến nỗi cả người chết chắc cũng phải bật dậy. Trong chớp mắt, Cali hiệ n ra trước cái cây và kêu tướng lên: 
- Bvana kubva cưỡi ngựa! 
Trong giọng của cậu bé có nhiều niềm vui hơn là sự ngạc nhiên, bởi nó quá tin tưởng vào sự hùng mạnh của Xtas, nên nếu như Xtas có hóa phép tạo ra voi đi nữa thì cậu bé da đen cũng chẳng ngạc nhiên lắm. 
Nhữ ng niềm vui bao giờ cũng khiến cho người da đen cười, nên thằng bé vừa vỗ đùi bành bạch vừa cười lên như hóa dại. 
- Hãy buộc chân con ngựa này lại, - Xtas bảo, tháo đồ đạc xuống, đốt to lửa lên và nấu nước sôi đi. 
Rồi em bước vào lòng cây gỗ. Nen cũng đã thức dậy và bắt đầu gọi tên em. Xtas khẽ hé bứ c rèm bằng vải nhìn khuôn mặt nhợt nhạt của Nen trong ánh sáng ngọn đèn cù ng đôi bàn tay gầy trắng bệch đặt trên lần chăn đắp trên người cô bé. 
- Em thấy trong người ra sao, cô bé? - Xtas vuivẻ hỏi. 
- Bình thường, em ngủ rất say, cho tới khi con Xaba làm em thức giấc. Thế sao anh không ngủ? 
- Vì anh còn phải đi. 
- Đi đâu, anh? 
- Tới hiệu thuốc, - Tới hiệu thuốc à? 
- Phải, để mua kí ninh mà. 
Vị thuốc kí ninh đắng ngắt không làm cho cô bé thích thú chút nào, nhưng cô bé vốn xem đó là thứ thuốc trị được bách bệnh trên đời nên cô thở dài vào bảo: 
- Em biết anh không còn kí ninh nữa. 
Xtas bèn giơ một trong hai cái lọ lên gần đèn và hỏi vẻ vừa tự hào vừa sung sướng: 
- Thế cái gì đây? 
Nen không muốn tin vào mắt mình nữa, còn cậu bé nói vội vã, cả người như sáng bừng lên: 
- Em sẽ khỏe ngay bây giờ! Lát nữa anh sẽ lấy cho em một liều thuốc thật nhiều bọc trong vỏ quả vả tươi và em phải nuốt chửng, rồi uống thứ gì thì em sẽ biết. Sao em nhìn anh như nhìn con mèo màu xanh thế? Phải anh còn một lọ nữa. Anh được một người đàn ông da trắng cho, trại của ông ta ở cáchđây bốn dặm. 
Anh vừa từ đó quay về đây. Ông ta tên là Linđe và bị thương, nhưng ông ta cho anh vô số thứ ngon. Anh quay về bằng ngựa, nhưng phải đi bộ đến chỗ ông ta đấy. Em nghĩ là đi qua rừng trong đêm dễ chịu lắm à? Brr! Có các vàng anh cũng không đi nữa, trừ phi đi xin thuốc kí ninh! 
Nói thế xong, em rời cô bé đang kinh ngạc, đi sang “buồng con trai”, lấy trong số lương thực dự trữ một qủa vả nhỏ nhất, khoét ra và rắc thuốc kíninh vào bên trong, chú ý sao cho liều thuốc khôngnhiều hơn so với những viên thuốc mà em nhận được ở Kháctum. Rồi em bước ra khỏi thân cây, rótnước trà vào cốc nước mang và o cho Nen. 
Trong thời gian ấy cô bé nghĩ tới chuyện vừa xảy ra. Cô bé rất tò mò, không hiểu người da trắng nọ là ai? Làm sao Xtas lại biết ông ta? Liệu ông ta có đến thăm chúng không và liệu có đi cùng chúng? Bây giờ cô bé không hề nghi ngờ gì nữa, khi Xtas đã có được kí ninh thì cô sẽ khỏe lại. Nhưng anh Xtas này... dám đi một mình trong đêm vượt quarừng, cứ như là không ấy thôi! Dù cho cậu bé cóngạc nhiên, nhưng Nen vẫn quen coi tất cả những gì Xtas làm cho cô là những chuyện tất nhiên, cô bé không hề suy nghĩ gì lâu la về điều đó, vì nói cho cùng thì một người anh lớn phải chăm sóc một đứaem gái chứ! Nhưng lần này thì cô bé hiểu được rằngnếu không có sự chăm sóc của Xtas thì chắc chắncô bé đã chết từ lâu, rằng Xtas vô cùng chăm lo tới Nen, rằng cậu chiều chuộng và bảo vệ Nen đến mức không có một đứa con trai nào ở vào tuổi cậu có thểlàm được - và một lòng biết ơn to lớn tràn ngậptrong trái tim nhỏ nhoi của cô bé. 
Cho nên khi Xtas bước vào và cầm thuốc cúi xuống thì Nen liền lập tức vươn hai cánh tay mảnh mai của mình lên ôm choàng lấy cổ Xtas và chân thành ghì chặt lấy: 
- Anh Xtas, anh đối với em thật tốt biết bao. Còn thằng bé đáp: 
- Thì anh còn biết tốt với ai nữa? Tuyệt lắm! Nào, uống thuốc đi em! 
Tuy nhiên, cậu vui sướng vô cùng, mắt cậu long lanh thỏa mãn, và quay lại phía lỗ cửa gọi to, với vẻ thật tự hào và sung sướng: 
- Mêa! Bây giờ đưa trà cho cô bé nào! 
--------------- 
1 Gần đây, người ta tin chắc rằng, bệnh ngủ này do giống ruồi tse tse gây ra khi đốt người (chính giống ruồi tse tse gây cái chết cho đại gia súc). Tuy nhiên, bệnh ngủ chỉ lan tràn trong một số vùng mà thôi. Vào thời khởi nghĩa Mahơđi, nguyên nhân của bệnh này chưa được biết. (Chú thích của tác giả).



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 33

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Mãi trưa ngày hôm sau, Xtas mới đi thăm ông Linđe được, vì còn phải ngủ bù cho một đêm thức trắng. Dọc đường em bắn hạ hai con chim pentácca vì nghĩ rằng hẳn người ốm đang cần thịt tươi, và quả thật món quà này được nhậ n với lòng biết ơn.Ông Linđe yế u lắm rồi nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Ngay sau khi chào hỏi, ông hỏi ngay về Nen, rồi ông dặn Xtas chớ nên xem kí ninh là phương thuốc đủ hiệu nghiệm để chống lại bệnh sốt rét, mà cần phải tránh cho Nen khỏi bị nắng, bị ướt, ban đêm không được ở những chỗ ẩm thấp và không được dùng nước độc. Sau đó Xtas thuật lại cho ông nghe - theo yêu cầu của ông - toàn bộ câu chuyện của em và Nen, từ đầu cho tới khi đến được Kháctum, cuộc tiếp kiến Mahơđi, rồi sau đó, từ Phasôđa tới lúc tự giải thoát khỏi tay Ghebơrơ cùng chuyến đi tiếp tục. Trong khi em kể, người đàn ông Thuỵ Sĩ nhìn em với sự thích thú ngày càng tăng, với sự ngạc nhiên, và khi câu chuyện kết thúc, ông đốt một tẩu thuốc lá, nhìn Xtas một lần nữa từ đầu tới chân rồi nói với vẻ trầm ngâm: 
- Nếu như đất nước của cháu có nhiều thiếu niên như cháu thì chắc hẳn ngoại bang khó lòng khuất phục nổi. 
Rồi sau một giây im lặng, ông nói tiếp: 
- Bằng chứng tốt nhất chứng tỏ những lời cháu nói là thật, là sự kiện cháu đang đứng trước mặt ta. Cháu biết ta muốn nói gì với cháu không? Hoàn cảnh của các cháu quả là kinh khủng, đường đi về ngả nào cũng ghê gớm ngang nhau, nhưng ai biết đâu đấy, một cậu bé như cháu có thể cứu mình cùng đứa trẻ ấy thoát khỏi cái vực thẳm này cũng nên... 
- Chỉ cần em Nen khỏe thôi, cháu sẽ làm tất cả những gì cháu có thể làm được, - Xtas thốt lên. 
- Nhưng cũng phải biết giữ sức cháu ạ, vì nhiệm vụ đang ở trước mặt cháu thật quá sức ngay cả đối với người lớn nữa kia. 
Cháu có biết hiện nay cháu đang ở chỗ nào không đã? 
- Không ạ. Cháu chỉ nhớ rằng, sau khi rời Phasôđa, chúng cháu đi ngang qua một làng lớn, gọilà làng Đeng, rồi một con sông nhỏ nào đó. 
- Sông Xốpbat, - ông Linđe ngắt lời. 
- Ở Đeng có rất nhiều quân phiế n loạn và người da đen. 
Nhưng sau sông Xốpbat, chúng cháu đi vào vùng rừng, và đi suốt cả tuần cho đến khi gặp cái khe núi trong đó hẳn bác đã biết xảy ra chuyện gì... 
- Ta biết rồi. Rồi sau đó, các cháu đi theo cái khe nú i đó đến khi gặp con sông. Cháu hãy nghe ta nói đây: thế có nghĩa là, sau khi vượt qua sông Xốpbat, cùng với bọn Xuđan, các cháu đã quành về phíaĐông Nam, nhưng thiên nhiều về phía Nam hơn. Hiện nay các cháu đang ở trong vù ng mà các nhà thám hiểm cũng như các nhà địa lí hoàn toàn chưa biết tới. Con sông ở cạnh chúng ta đây chảy lên phía Tây Bắc và hình như sẽ đổ vào sông Nin. Ta nói hình như vì bản thân ta cũng không biết thật rõ, mà ta cũng không còn có thể tìm hiểu để khẳng định điều đó nữa, mặc dù chính ta rời khỏi dãy núi Caramôiô là để nghiên cứu ngọn nguồn con sông này. Sau trận đánh vừa rồi, ta được nghe bọn tù binh phiến loạn nói rằng sông này gọi tên là sông Ogêlôguen, nhưng chính bọn chúng cũng không biết chắc lắm, vì thự c ra chúng nhảy vào vùng này chỉ để săn bắt nô lệ mà thôi. Nói chung, trước đây bộ lạc Sinlúc chiếm cứ vùng đất thưa dân cư này, nhưng hiện nay ở đây hoàn toàn là vùng không người, vì một phần dân cư bị chết bởi dịch đậu mùa, một phần bị bọn quân Mahơđi quét sạch, còn mộtphần chạy trốn vào dãy núi Caramôiô. Ở châu Phi, nhiều khi một vùng đất hôm nay còn đang dầy đặc cư dân, ngày mai đã trở thành vùng đất trắng, không một bóng người. Theo nhữ ng tính toán của ta, các cháu đang ở cách Lađô chừng ba trăm kilômét. 
Các cháu có thể chạy trốn về phía Namđến với ông Êmin, nhưng chính ông Êmin cũng đang bị quân phiến loạn vây hãm, nên chuyện này chẳng nên bàn tới làm gì... 
- Thế còn tới Abixinia thì sao ạ? - Xtas hỏi. 
- Cũ ng vào khoảng ba trăm cây số. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng, Mahơđi đánh nhau với toàn thế giới, nghĩa là đánh nhau cả với Abixinia nữa. Ta biết được qua bọn tù binh, rằng biên giới phía Tây và phía Nam hiện đang có những bộ tộc lớn nhỏ của quân phiến loạn tuần phòng có nghĩa là các cháu dễ dàng bị lọt vào tay chúng. Abixinia là quốc gia theo đạo Thiên Chúa, nhưng ở vùng phía Nam lại là những bộ lạc dã man, hoặc là ngoại đạo hoặc theo đạo Ixlam - và cũng vì vậy họ ngấm ngầm ủ ng hộ Mahơđi... 
Không, đường đó các cháu không qua được đâu! 
- Thế thì cháu biết làm gì, biết đi đâu với Nenbây giờ? - Xtas hỏi. 
- Ta đã nói rằng tình thế thật gay go mà, - ông Linđe đáp. 
Nói thế xong, ông đặt hai tay lên đầu và nằm im lặng một hồi lâu. 
- Từ đây tới biển, - ông nói, - cách chừng chín trăm kilômét, qua núi, qua những vùng thổ dân hoang dã, thậm chí vượt qua cả sa mạc nữa, vì hình như ở đấy có những vùng rộng lớn hoàn toàn không có nước. Nhưng vùng đất này về danh nghĩa đang thuộc về Anh quố c. Rất có thể sẽ gặp những đoàn vận tải ngà voi đi Kixmai, đi Lamu hay đi Monbaxa, cũng có thể sẽ gặp một đoàn truyền giáo chẳng hạn... Biết rằng do có bọn phiến loạn nên không thể nào nghiên cứu hết con sông này, vì nó quành ra sông Nin, chính ta cũng đã muốn đi vềphía Đông, về phía đại dương... 
- Thế thì chúng ta hãy cùng nhau trở về đi bác! 
- Xtas kêu lên. 
- Ta không về được nữa rồi. Con lợn nơriđi làm nát cả thịt lẫn gân chân ta, chắc ta bị nhiễm trùng máu. Chỉ một nhà phẫu thuật mới có thể cứu được ta bây giờ bằng cách cắt bỏ cái chân đi. 
Bây giờ thì nó đã cứng lại và tê bại đi rồi, chứ hôm đầu thì đau ghê gớm... 
- Chắc chắn là bác sẽ khỏe lại thôi mà. 
- Không đâu, cậu bé can trường của ta, chắc chắn là ta sẽ chết, còn cháu, cháu sẽ lấy đá đắp mồ ta thật kín để lũ linh cẩu khỏi moi xác ta ra. Người chết thì thế nào cũng xong, nhưng lúc đang còn sống mà nghĩ về chuyện đó thì chẳng dễ chịu chút nào... 
Thật nặng nề khi phải chết xa những người thân thuộc... 
Nói tới đây, mắt ông mờ đi như bị một làn sương bao phủ, rồi ông nói tiếp: - Nhưng ta đã thanh toán với ý nghĩ đó rồi, nên tốt nhất chúng ta đừng nói về ta nữa mà về các cháu thì hơn. Ta khuyên cháu một điều: chỉ còn lại một con đường sang phía Đông, đến đại dương. Nhưng các cháu hãy nghỉ ngơi cho khỏe trước khi lên đường, lấy thêm sức lực. Nếu không cô bạn đường nhỏ bé của cháu sẽ chết trong vòng vài tuần mất. Hãy lùi chuyến đi lại tới cuối mùa mưa hay hơn nữa. Những tháng hè đầu tiên, khi mưa ngừng rơi, và nước hãy còn bao phủ các đầm lầy là những tháng lành nhấ t. Nơi chúng ta đang ở đã là vùng cao nguyên, nằm bên trên mựcnước biển chừng bảy trăm mét. Ở độ cao một nghìn ba trăm mét thì hoàn toàn không còn bệnh sốt rét nữa, còn những người bị bệnh này được mang từ vùng thấp lên thì cơn bệnh cũng dịu đi nhiều. Cháu hãy mang cô bạn người Anh lên núi... 
Rõ ràng việc nói chuyện làm ông rất mệt, nên ông dừng lời, và suốt một hồi lâu ông kiên nhẫn đuổi đám nhặng xanh giống hệt như lũ nhặng mà Xtas đã trông thấy trên những vùng đầy tro xám của Phasôđa. 
Sau đó, ông nói tiếp: 
- Cháu hãy chú ý thật kĩ những điều ta nói đây. Cách đây một ngày đường về phía Nam có một ngọn núi riêng lẻ nhô cao lên, nhưng không cao quá tám trăm mét. Trông nó như một cái xoong lật ngược vậy. Sườn núi rất dốc, chỉ có một gờ đá lên được, hẹ p tới nỗi nhiều chỗ chỉ đủ cho hai con ngựa đi kề nhau mà thôi. Trên đỉnh núi bằng phẳng rộng chừng một kilômét hay hơn, vốn có một cái làng dân da đen, nhưng bọn Mabơđi đã giết và bắt sạch dân làng đi rồi. Cũng có thể chính tên Xmainơ bị ta đánh tan đã làm chuyện đó, nhưng ta không lấy lại được số nô lệ của hắn, vì trước đó hắn đã gửi họ đi theo một đoàn lính hộ tống tới vùng sông Nin mất rồi. Các cháu hãyở lại đỉnh núi ấy. Ở đó có một suối nước rất lành; mấy cánh đồng sắn và nhiều chuối lắm. Trong các lều các cháu sẽ tìm thấy nhiều xương người, nhưng đừng sợ bệnh dịch gì lây từ những hà i cốt ấy, vì sau khi bọn phiến loạn đi rồi thì ở đó chỉ còn lũ kiến, chính lũ kiến này đã khiế n đoàn của ta phải rời đó mà đi. Ngoài ra không còn ma nào nữa. Các cháuhãy ở lại làng ấy một hay hai tháng. Ở độ cao ấy không còn sốt rét nữa đâu. Ban đêm thường lạnh. Ở đó cô bạn nhỏ của cháu sẽ lấy được sức khỏe, còn cháu thì cũng sẽ khỏe thêm lên. 
- Nhưng sau đó thì làm gì và đi đâu nữa ạ? 
- Sau đó thì tuỳ ý Chúa. Các cháu hãy cố sức vượt sang Abixinia tới những vùng xa hơn, nơi quânphiến loạn chưa đến được, hoặc đi về phía Đông. Tanghe nói rằng người Ả Rập từ vùng bờ biển lần tới được một cái hồ nào đấy để tìm ngà voi, họ thường mua ngà voi của các bộ tộc Xamburu và Vahima. 
- Vahima à? Cali là người Vahima đấy.Và Xtas bắt đầu kể cho ông Linđe nghe nó đã được thừa hưởng Cali sau cái chết của gã Ghebơrơ ra sao, rằng Cali đã nói cho em biết rằng nó là con trai của vị đầu lĩnh của toàn thể những người Vahima. Song ông Linđe đón nhận cái tin này hờ hững hơn nhiều so Xtas nghĩ. 
- Thế càng hay, - ông nói, - vì thằng bé có thể giúp ích được cho chá u. Trong số dân da đen cũng có những tâm hồn trung thực, mặc dù nói chung không nên chờ đợi ở lòng biết ơn của bọn họ, đó là những đứa trẻ con dễ dàng quên đi những gì diễn ra ngày hôm qua. 
- Nhưng Cali sẽ không quên là cháu đã cứu nó thoát nó khỏi tay Ghebơrơ, cháu tin chắc điều đó. 
- Có thể, - ông Linđe đáp và trỏ tay sang Nasibuông nói thêm, - đây cũng là một đứa trẻ tốt bụng. Sau khi ta chết, cháu hãy cưu mang nó. 
- Xin bác đừng nói và cũng đừng nghĩ tới cái chết nữa. 
- Anh bạn thân mến của ta ơi, - người Thuỵ Sĩ đáp. - Ta đang mong nó tới đây, cốt sao đừng đau đớn quá là được. Hãy nghĩ xem, bây giờ đây ta không chút sức tự vệ, và giá như có một trong những tên Mahơđi nào đó đã bị đánh tan, trong khi lang thang tình cờ tới cái khe núi này, thì một mình hắn cũng có thể thịt ta như thịt một con cừu non vậy. 
Nói tới đây ông trỏ sang những người da đen đang ngủ: 
- Những kẻ kia không bao giờ tỉnh dậy nữa, mà ta nói không đúng lắm - mỗi người chỉ tỉnh dậy một lúc ngay trước khi chết, chạy quá ng quàng vào rừng, rồi không quay lại nữa... Từ hai trăm người chỉ còn lại có sáu mươi. Nhiều kẻ bỏ trốn, nhiều kẻ bị chế t vì bệnh đậu mùa, một số thiếp đi mãi mãi trong những khe núi khác. 
Xtas thương cảm và kinh hoàng nhìn kĩ những người đang ngủ. Da họ có màu tro xám, mà đối với người da đen có nghĩa là xanh xao. Một số người mắt nhắm nghiền, kẻ khác mắt mở he hé, nhưng ngay cả những kẻ này cũng ngủ say, vì đồng tử của họ không hề có phản ứng gì đối với ánh sáng. Một số người đầu gối sưng phù. Tất cả đều gầy guộc một cách kinh khủng, đến nỗi qua làn da có thể đếm trọn số xương sườn của họ. Tay chân họ co giật liên tục và rất nhanh. Những con nhặng xanh bâu dầy đặc lên mắt lên môi họ. 
- Không có cách nào cứu họ nữa ư? - Xtas hỏi. 
- Không có! Ở vùng hồ Vichtoria Nianda bệnh này quét sạch cả làng. Đôi khi nó lan tràn ghê gớm, đôi khi ít hơn. Người ở những vùng bờ sông nhiều lau lách dễ bị bệnh này. 
Mặt trời đã ngả về Tây, nhưng trước khi chiều tới, ông Linđe còn kể cho Xtas nghe câu chuyện đờiông. Ông là con một thương gia ở Duyrích. Bố mẹ ông xuất thân từ vùng Cáclơxruhơ, nhưng từ năm 1848 sang sinh sống ở Thụỵ Sĩ. Cha ông phát tài vì buôn tơ lụa. Cha ông đào tạo ông thành một kĩ sư, nhưng chàng thanh niên Henrich ngay từ thuở thiếu thời đã say mê du lịch. Sau khi tốt nghiệp trường bách nghệ và được thừa hưởng toàn bộ gia sản của cha, ông lên đường làm chuyến thám hiểm đầu tiên đi Ai Cập. 
Đó là từ trước thời kì Mahơđi, nên ông đến được tận Kháctum và đi săn cùng với dân Dangan ở Xuđan. Sau đó, ông dành thì giờ nghiên cứu địa lí châu Phi và trở thành một người rất thông thạo lĩnh vực này, đến nỗi nhiều hội địa lí công nhận ông làm thành viên danh dự của mình.Ông bắt đầu cuộc thám hiểm cuối cùng - cuộc thám hiểm kết thúc thê thảm như thế đối với ông - từ Dandiba, ông đến được vùng Hồ Lớn và định đi dọc theo dãy nú i chưa được nghiên cứu tới là dãy Caramôiô đến tận Abixinia, rồi từ đó, đến bờ đại dương. May thay - hoặc không may thay - là lúc đóđang có chiến tranh giữa Uganđa và Uniôrô. Ông Linđe đã lập được nhiều công trạng đối với nhà vua Uganđa, để thưởng công, nhà vua bèn cho ông hơnhai trăm phu khuân vác đồ đạc. Điều đó khiến cho chuyến đi và việc thám hiểm núi Caramôiô trở nên nhẹ nhàng, nhưng rồi bệnh đậu mùa bắt đầu xuất hiện trong đoàn người, tiếp đó lại đến cái bệnh ngủ khủng khiếp này - và thế là cả đoàn bị tan vỡ. 
Ông Linđe còn có rất nhiều thức ăn dự trữ bằng đồ hộp, nhưng vì lo ngại bệnh scôbút(1) ngày nào ông cũng đi săn để kiếm thịt tươi. Ông là một tay súng thiện xạ nhưng lại là một nhà đi săn không mấy thận trọng. Và thế là xảy ra tai họa, khi mấy ngày trước đây, ông nhẹ dạ đến quá gần một con lợn lòi nơriđi bị thương, con vật chồm dậy và cắn nát chân ông, rồi sau đó lại xéo lên lưng. Chuyện đó xảy ra ngay gần trại ngay trước mắt thằng bé Nasibu, thằng bé xé toạc cái áo của nó làm băng cầm máu cho ông và đưa ông vào lều. Nhưng trong cái chân bị thương có thể có chứng xuất huyế t nội và người bị thương bị bệnh hoại huyết đe dọa. 
Xtas nhất thiết muốn được băng bó cho ông và em nói rằng hằng ngày em sẽ đến với ông, hoặc để khỏi phải để Nen lại một mình dưới sự chăm sóc của hai người bạn da đen - sẽ mang ông trên tấm chăn căng giữa hai con ngựa về mũi đất, về “Cracốp”. 
Ông Linđe đồng ý để em thay băng giúp, nhưng không đồng ý di chuyển. 
- Ta biết - ông nói và chỉ những người da đen của mình, - rằng những người này nhất định sẽ chết, nhưng khi nào họ còn chưa chết, ta không đành lòng để họ bị lũ linh cẩu xé xác lú c đang sống, bọn này hiện đang bị lửa giữ cho phải ở xa xa về ban đêm. 
Rồi ông nóng nảy lặp đi lặp lại: 
- Ta không thể, không thể, không thể! 
Nhưng lát sau ông bình tĩnh lại và nói bằng giọng vô cùng xúc động: 
- Sáng mai, cháu hãy đến đây... Bác có một yêu cầu đối với cháu. Nếu như cháu hoàn thành được cho bác thì biết đâu Chúa sẽ đưa các cháu thoát khỏi cái vực thẳm Phi châu này, còn bác thì sẽ được chết thanh thản hơn. Bác muốn để đến mai hãy nói điều này, nhưng vì có thể sáng mai bác không tỉnh, nên bác nói hôm nay: 
hãy múc nước vào một cái bình nào đấy, rồi cháu hãy dừng lại bên từng người đáng thương đang ngủ kia, vẩy nước và nói những lời này: “Ta rửa tội cho người, nhân danh Cha, vàCon, và Đức Chúa Thánh thần!...” Nói đến đây, sự xúc động khiến ông nghẹn ngào, ông ngừng lời. 
- Bác cứ tự trách mình, - một lát sau ông nói tiếp, - rằng đã không vĩnh biệt được như thế với những kẻ đã thiếp đi vĩnh viễn trước đây. Nhưng giờ đây cái chết đang ở trước mặt bác... Bác muốn rằng... ít nhất thì những người còn lại trong đoàn của bác sẽ được cùng đi vào chuyến đi vĩnh hằng cuối cùng kia... 
Và ông chỉ tay lên bầu trời rực nắ ng - hai giọt lệ to lớn chầm chậm lăn trên gò má ông. Xtas òa lên khóc nức nở. 
----------------- 
1 Bệnh hoại thư do thiếu vitamin.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 34

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Mặt trời buổi sáng hôm sau soi sáng một cảnh tượng kì lạ. 
Xtas đi dọc theo vách đá, dừng lại trước từng người da đen, vẩy nước lên trán họ và đọc lời kinh cầ u nguyện cho họ. Còn họ vẫn cứ ngủ say, taychân co giật, đầu rũ xuống ngực hay ngước lên trời, hãy còn sống đấy mà trông đã giống như nhữ ng xác chết rồi. Và cứ thế, trong ánh mặt trời, trong sự thanh bình ban mai, trong cái câm lặng của sa mạc,lễ rử a tội cho những người đang ngủ diễn ra như thế đó. Ngày hôm đó, trời không mây thanh cao, màu xanh xám như cũng sầu thương. 
Ông Linđe hãy còn tỉnh táo, nhưng mỗi lúc một yếu hơn. Sau khi thay băng, ông giao cho Xtas các thứ giấy tờ đựng trong hộp sắt tây, uỷ nhiệm choem bảo quản và không nói gì thêm. Ông không thể ăn được nữa, nhưng cái khát giày vò ông kinh khủng. 
Trước khi mặt trời lặn ông bắt đầu mê sảng. Ông gọi tên những đứa trẻ nào đó, bảo chúng đừng bơi quá xa ra giữa hồ, cuối cùng giật người lên từng cơn và đưa hai tay ôm lấy đầu. 
Hôm sau nữa, ông hoàn toàn không nhận ra Xtas, và ba ngày sau đó ông qua đời vào chính ngọ, không hề tỉnh lại lần nào. 
Xtas chân thành thương khóc ông, rồi cả hai cùng với Cali mang ông tới một cái hang hẹp lòng gần đấy, lấy đá và gai góc bịt kín cửa hang. 
Xtas mang cậu bé Nasibu về “Cracốp”, bảo Cali ở lại chỗ đó canh giữ đồ đạc và ban đêm đốt lửa thật to bên cạnh những người đang ngủ. Còn em cứ đi về liên tục giữa hai khe núi, chuyên chở các túi đồ, vũ khí, đặc biệt là đạn cho những khẩu rêmingtơn để tháo lấy thuốc súng làm mìn phá tảng đá đang bịt đường ra của King. May mắn thay, sau những liều thuốc kí ninh dùng hàng ngày, sức khỏe của Nen được cải thiện rõ rệt, và đủ loại thức ăn khiến cô mạnh lên. Tuy nhiên, bao giờ rời Nen, Xtas cũng không muốn, vì lo ngại, và trước khi ra đi em cấm cô bé không được ra khỏi cây, lấy dây xiêm gai bịt kín lỗ cửa ra vào. Song do hàng núi công việc đang đè lên vai, em phải để Nen lại cho Mêa trông nom cùng với Nasibu và Xaba, mà thực ra, em trông cậy nhiều nhất ở con Xaba. Em thà đi hàng chục lần trong ngày sang trại ông Linđe để lấy đồ đạc hơn là để cô bé phải ở một mình quá lâu. Em làm việc kinh người nhưng sức khỏe sắt thép củ a em chịu đựng được hết mọi nỗi khó nhọc. Tuy vậy, mãi mươi ngày sau, các bọc đồ mới được chia làm hai trọn vẹn, những thứ ít cần thiết hơn được chôn giấu trong các hang núi, những thứ cần thiết hơn được mang về “Cracốp”, lũ ngựa cũng được đem về mũi đất, trên lưng ngựa là phần lớn những khẩu sú ng rêmingtơn mà con King sẽ phải chở đi theo. 
Trong thời gian đó, ở trại của ông Linđe, thỉnh thoảng lại có một người nào trong số những ngườ i đang ngủ trong cơn mê cuồng trước khi chết, vùng dậy chạy trốn vào rừng và không quay trở lại nữa. Cũng có những kẻ chết ngay tại chỗ, một số người khác thì bị đập đầu vào đá chết ngay trong trại hoặc ở gần đó vì chạy trong khi đang ngủ. Những người này được Cali chôn cất. Sau hai tuần, chỉ còn lại có mỗi một người, nhưng người này cũng chết ngay trong khi ngủ do kiệt sức. 
Mãi rồi cũng tới lúc phá tung khối đá để giải phóng cho King. 
Nó đã thuần đến nỗi, theo lệnh của Xtas, nó dùng vòi túm lấy em đặt lên đầu. Nó cũng đã quen với việc chuyên chở những thứ đồ nặng mà Cali kéo theo các thang tre chất lên lưng nó. Nen thì nhất mực bảo rằng bọn trẻ bắt nó mang nặng quá, nhưng thực ra tất cả những thứ đó đối với nó chỉ nhẹ như một con ruồi, và chỉ tới khi có những bọc đồ đạc của ông Linđe nó mới thật sự chở đủ nặng. Nó cũng đã kết thân với con Xaba (ban đầu cứ trông thấy con chó là nó lại mất bình tĩnh) và đã đùa nghịch với con chó bằng cách dùng vòi lật lật con chó trên mặt đất, còn Xaba thì giả vờ cắn cái vòi. Thỉnh thoảng, nó bất thần phun nước vào con chó khiến Xaba cho rằng đó là một thứ đùa nghịch rất khó chịu. 
Bọn trẻ sung sướng nhất bởi con vật thông minh và biết suy nghĩ hầu như hiểu được tất cả những gì mà chúng yêu cầu nó, nó không những chỉ hiểu mọi mệnh lệnh, mọi sự đòi hỏi mà thậm chí cả từng cử chỉ nữa. Về phương diện này thì lũ voi vượt xa mọi thứ thú nuôi khác, cò n King thì vượt hẳn con chó Xaba, con này chỉ biết ve vẩy đuôi khi nghe những lời cảnh cáo của Nen rồi sau đó nó lại làm mọi thứ theo ý mình. Sau vài tuần lễ, King hiểu được rất rõ rằng người cần phải vâng lời nhất là Xtas, người mà mọi người chăm lo nhất là Nen. Vì thế, nó thực hiện nghiêm túc nhất tất cả những mệnh lệnh của Xtas, nhưng lại yêu mến Nen hơn cả. Với Cali thì nó cầm chừng, còn Mêa thì nó hoàn toàn bỏ qua. 
Sau khi làm xong bộc phá, Xtas nhét thật sâu vào khe hở, sau đó dùng đất sét bịt kín hết, chỉ để lại một lỗ nhỏ cho cái ngòi bện bằng sợi cọ khô trộn với thuốc súng. Giờ phút quyết định đã điểm: Xtas tự tay châm sợi dây đã trộn với thuốc súng, rồi cắm đầu chạy thụ c mạng đến cái cây mà trước đó nó đã bắt tất cả mọi người phải nấp vào. Nen lo rằng con King sẽ hoảng sợ quá chăng, nhưng cậu bé nói cho nó yên tâm rằng đã chọn ngày mà đêm trước có mưa dông sấm chớp ầm ầm, hai nữa, nó cam đoan rằng giống voi hoang dã từng nghe nhiều tiếng sấm gầm còn khủng khiếp hơn, khi trời ra oai trổ tài với rừng rú. Tuy vậy, bọn trẻ vẫn ngồi lo lắng, tim đập gấp gáp, tính từng phút một. Một tiếng nổ khủng khiếp rung động cả bầu không khí, mạnh đến nỗi cây bao báp rung chuyển toàn thân, từ gốc tới ngọn, những lớp gỗ mục ruỗng chưa kịp lấy đi hết đổ ụp xuống đầu cả bọn. Xtas nhảy vọt ngay ra khỏi cây, và vượt qua những khú c ngoặt của khe núi, nó lao thẳng tới chỗ họng khe. 
Kết quả vụ nổ thật quá mĩ mãn. Một nửa khối đá vôi vỡ nát thành từng mảnh vụn, nửa kia vỡ ra thành nhiều khối lớn và nhỏ, những mảnh này bị sức nổ ném vung đi khá xa. 
Voi đã được giải phóng! 
Cậu bé sung sướng nhảy lên bờ khe núi, gặp Nen, Cali và Mêa ở đó. Con King hơi hoảng, lùi sát tận bờ khe, đứng giơ vòi về phía phát tiếng sấm khác thường nọ. Tuy nhiên, khi Nen bắt đầu gọi nó, nó liền thôi vẫy tai, và khi cô bé qua chỗ thông vừa bị phá thủng để đến với nó, nó hoàn toàn bình tĩnh lại. Còn lũ ngự a thì hoảng hơn King, hai con dông tuốt vào rừng, Cali phải tìm mãi cho đến lúc trời gần tối mới thấy chúng. 
Ngay trong ngày hôm đó, Nen đưa King “ra với đời”. Con vật khổng lồ đi theo sau cô bé ngoan ngoãn như một chú cún con, sau đó, nó tắm gội dưới sông và tự lo lấy bữa chiều cho mình bằng cách tựa đầu vào một cây sung Ai Cập to tướng, nó bẻ cây này gãy nhẹ nhàng như một cây lau nhỏ, rồi sau đó xơi hết cả quả cùng lá cây. 
Song đến tối nó bước đến gần cây bao báp và cứ chố c chốc lại thò cái vòi linh động của nó qua lỗ cửa vào tìm Nen một cách nóng nẩy và quấy đến nỗi rốt cuộc Xtas phải phát cho nó một cái rõ đau vào đầu vòi. 
Người sung sướng nhất vì những kết quả của ngày hôm nay đó là Cali vì nó thoát khỏi công việc kiếm thức ăn cho con vật khổng lồ, và đó hoàn toàn không phải là một việc dễ dàng. Vì vậy Xtas và Nen nghe thấy tiếng nó hát một bài ca mới đầy sung sướng trong khi đang nhen lửa làm bữa tối, bài ca gồm những lời sau: 
- Ông lớn giết người và sư tử! Yah, yah! Ông lớn phá vỡ tảng đá yah! Voi tự bẻ cái cây, còn Cali chỉ ngồi chơi và đánh chén - yah, yah! 
Mùa mưa - hay mùa masica như người ta gọi đã gần kết thú c. Hãy còn những ngày trời mưa và đầy mây nhưng đã có cả những ngày hoàn toàn hửng nắng. Xtas quyết định chuyển sang ngọn núi mà ông Linđe đã chỉ và nó thực hiện ý định này ngay sau khi giải phóng cho King. Sức khỏe của Nen không còn đáng lo lắm nữa, cô bé đã cảm thấy mạnh hơn nhiều. 
Thế là, chọn được một buổi sáng đẹp trời, bọn trẻ lên đường đi về phía Nam. Chúng không còn sợ bị lạc đường nữa, vì trong số rất nhiều thứ đồ đạc mà cậu bé được thừa hưởng của ông Linđe, có một cái địa bàn và một cái ống nhòm rất tốt, dùng nó có thể nhìn rõ những vùng xa. Cùng đi với bọn trẻ, ngoài Xaba và con lừa, còn có năm con ngựa thồ hàng và con voi. Trừ những gùi hàng ra, con vật còn chở trên đầu cô bé Nen, cô bé ngồi giữa hai cái tai khổng lồ của nó nom cứ như ngồi trong một chiếc ghế bành vậy. Xtas rời bỏ không hề tiếc mũi đất bên sông và cái cây bao báp, vì chúng gắn liền với những hồi ức về bệnh của Nen. Ngược lại, cô bé lại buồn bã ngắm nhìn những tảng đá, cái cây, thác nước và nói rằng sẽ còn quay trở lại nơi đây khi nào “to” hơn. 
Tuy nhiên, cậu bé Nasibu còn buồn bã hơn nhiều, cậu bé yêu mến chân thành ông chủ trướcđây của cậu, và giờ đây, cưỡi trên mình lừa đi cuối đoàn, cứ chốc chốc cậu lại đưa cặp mắt đẫm lệ trông về phía mà ông Linđe tội nghiệp phải ở lại cho đến ngày phán xét vĩ đại. 
Gió thổi từ phương Bắc và ngày hôm ấy mát mẻ lạ lùng. Vì thế bọn trẻ không cần phải chờ cho qua buổi giữa mười giờ trưa với ba giờ chiều - cho qua cơn nóng nhất - mà có thể đi được nhiều đường đất hơn so với những đoàn khách thương khác. Con đường cũng không dài lắm, và mấy tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, Xtas đã trông thấy ngọn núi mà chúng đang hướng tới. Phía xa xa một dãy dài các đỉnh núi khác nổi lên trên nền trời, còn ngọn núi này thì đứng riêng biệt và gần hơn giống như một hòn đảo giữa rừng. Khi bọn trẻ đến gần hơn thì té ra là những sườn dốc đứng của núi bị bao bọc bởi một khúc quanh của chính con sông mà trước đóchúng đã dừng chân trên bờ . Đỉnh núi trông như bị chặt ngang, hoàn toàn bằng phẳng, và nhìn từ phía dưới, thì hình như nó được bao phủ bởi cả mộ t khu rừng rậm. Xtas ước tính rằng, nếu như mũi đất có cây bao báp của chúng nằm cao bẩy trăm mét trên mực nước biển, còn ngọn núi này cao tám trăm mét, thì chúng sẽ được ở trên độ cao một nghìn năm trăm mét, nghĩa là chắc khí hậu sẽ không nóng hơnbao nhiêu so với Ai Cập. Ý nghĩ này khiến em thêm phấn chấn và muốn mau chóng chiếm lĩnh cái pháo đài thiên nhiên ấy. 
Bọn trẻ dễ dàng tìm ra cái sống đá duy nhất dẫn lên đến đỉnh, và bắt đầu theo đó leo lên. Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, chúng đã đứng trên đỉnh núi. Khu rừng mà chúng trông thấy từ dưới chân núi quả thực là rừng, nhưng lại là rừng chuối. Cảnh tượng đó khiến cho cả bọn - kể cả con King - đều vui sướng, mà người vui sướng nhất lại là Xtas, vì em biết rằng ở châu Phi không có thứ thực phẩm nào bổ, lành, mà lại có khả năng ngừa bệnh tốt hơn bột chuối khô. Mà chuối thì bạt ngàn, ít nhất cũng đủ dùng cho chúng cả năm. 
Giữa những phiến lá chuối to bản ẩn kín những túp lều của người da đen, một số bị cháy trong cuộc tấn công ăn cướp, một số đã sụp đổ, nhưng số khácvẫn còn nguyên vẹn. Ở giữa làng là ngôi nhà lớn nhất, ngày trước là nhà của chúa làng, đượ c đắp rất đẹp bằng đất sét với cái mái rộng làm thành một hàng hiên chung quanh tường. Trước những túp lều, đây đó rải rác những chiếc xương hoặc những bộ xương người trắng như phấn, vì đã được lũ kiến làm cho sạch bóng, lũ kiến mà ông Linđe đã nhắc tới. Từ lúc đó đến nay đã nhiều tuần lễ trôi qua, nhưng trong lều vẫn còn thoáng ngửi thấy mùi hăng của kiến và không sao tìm ra nổi một con gián to màu đen nào vẫn thường có rất nhiều trong những túp lều của người da đen, không có một con nhện, một con bọ cạp hay một loài sâu bọ nào dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa. Những con kiến siaphu kinh khủ ng đã quét sạch sành sanh các giống vật đó. Cũng có thể tin chắc rằng, trên toàn bộ đỉnh núi không còn một con rắn nào, vì thậm chí cả loài trăn cũng trở thành nạn nhân của các chiến sĩ tuy nhỏ bé nhưng không gì cản nổi kia. 
Sau khi đưa Nen và Mêa vào lều của chúa làng, Xtas ra lệnh cho Cali và Nasibu dọn sạch các hài cốt. Bọn trẻ da đen thực hiện mệnh lệnh đó bằng cách quẳng hết xương xuống sông, dòng sông mang những hài cốt đó đi xa hơn. Trong khi làm công việc đó chúng nhận thấy rằng ông Linđe đã nhầm khi cam đoan rằng chúng sẽ không gặp trên núi một mạng sống nào. Sự tĩnh mịch bao trùm sau khi bọn phiến loạn đem hết người đi và những cây chuối đã thu hút về đây những đàn tinh tinh đông đảo, chúng dựng lên trên các cây cao những chiếc ô hay những mái nhỏ che mưa. Xtas không muốn giết chúng nhưng muốn xua đuổi chúng đi nơi khác, và thế là em bắn chỉ thiên. Tiếng nổ gây nên một cảnh hỗn loạn chung, cảnh đó càng trở nên hỗn loạn hơn khi tiếng súng được kèm thêm tiếng sủa giọng trầm của con Xaba và nhất là khi King - bị tiếng ồn ào kích động - rống lên vang động. Nhưng bọn tinh tinh để tháo lui không cần phải tìm đến cái gờ đá mà chỉ cần bám lấy những khe đá chúng cũng tuồn xuống tận sông và những cây cối mọc ven sông, nhanh đến nỗi răng con Xaba không kịp chạm tới một con nào cả. 
Mặt trời đã lặn. Cali và Nasibu nhóm lên một đống lửa để làm bữa tối. Sau khi dỡ những thứ đồ đạc cần thiết cho buổi tối, Xtas cũng bước vào nhà của viên chúa làng, nơi Nen đang ở. 
Trong nhà sáng sủa và vui vẻ, vì Mêa đã đốt lên không phải ngọn đèn từng soi sáng lòng cây bao báp mà là cây đèn dầu hỏa to tướng dùng khi đi đường được thừa hưởng của ông Linđe. Nen không cảm thấy mệt nhọ c gì sau một ngày đi đường mát mẻ và đang rất vui, nhất là khi Xtas thông báo với cô bé rằng những xương người làm cô sợ đã được dọn sạch. 
- Ở đây tốt quá, anh Xtas ạ! - Cô bé reo lên. - Anh nhìn này, thậm chí đến nền nhà cũng được rải nhựa cây. Chúng mình sẽ ở đây rất tuyệt. 
- Sáng mai anh mới đi xem xét kĩ toàn bộ khu vực, - Xtas đáp, - nhưng chỉ qua những thứ mà anh thấy hôm nay, thì có thể nói là sinh sống ở đây cả đời được. 
- Giá như có cha của chú ng ta thì có thể sống cả đời cũng được. Nhưng cái trang ấp này của chúng ta sẽ gọi tên là gì, anh? 
- Trong địa lí, ngọ n núi này sẽ mang tên là núi Linđe, còn cái làng này cứ để mang tên em: Nen! 
- Thế là cả em cũng được ghi vào địa lí à anh? Cô bé vô cùng sung sướng hỏi lại. 
- Em sẽ được ghi, chắc chắn như vậy! - Xtasnghiêm trang đáp lại.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 35

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Ngày hôm sau, mưa rơi chút ít, nhưng cũng có những giờ trời quang đãng, nên ngay từ sáng sớm Xtas đã đi thăm thú trang ấp, và cho tới trưa, em đã xem xét kĩ lưỡng tất cả mọi nơi. Nói chung, kết quả tham quan thật tuyệt diệu. Trước nhất, về phương diện an toàn, núi Linđe dường như là chỗ có một không hai trong toàn bộ Phi châu. Các sườn núi họa may chỉ có loài vượn là leo lên nổi. Cả sư tử lẫn báo đều không thể trèo lên đỉnh theo các sườn núi được. 
Còn nếu nói về cái sống đá, thì chỉ cần bố trí cho con King nằ m cạnh lối vào là có thể ngủ yên giấc. Xtas đi đến kết luận rằng tại đây em có thể chống lại ngay cả những đơn vị tương đối nhỏ của bọn phiến loạn, vì đường lên núi hẹp đến nỗi con King chỉ vừa đi lọt, và một người được trang bị khí giới tốt có thể ngăn không cho một kẻ nào lọtqua mà còn sống sót. Ở giữa “đảo” có một nguồn suối nước mát, sạch như pha lê, nguồn này chuyển thành dòng suối chảy len lỏi giữa các lùm chuối rồi đổ từ trên cao xuống sông, tạo nên một cái thác mảnh, tựa như một dải vải bằng bạc. Về phía Nam của “đảo” là nhữ ng cánh đồng sắn tốt tươi, củ sắn cung cấp cho người da đen thứ lương thực ngon lành, còn phía bên kia cánh đồng vút lên những khóm dừa thật cao, có ngọn trông giống như những ngù lông tuyệt đẹp. 
“Hòn đảo” được cả một biển rừng vây quanh, từ đây có thể nhìn đượ c rất xa. Về phía Đông xám mờ rặng núi Caramôiô. Phía Nam cũ ng có những vùng cao, trên đó nổi bật lên màu sẫm, hẳn là đất, ở đó có rừng bao phủ. Ngược lại, về phía Tây tầm mắt chạy thẳng tới đường chân trời, nơi rừng tiếp giáp với bầu trời. Nhờ cái ống nhòm của ông Linđe, Xtas trông thấy có nhiều khe núi và những cây gỗ to lớn mọc rải rác, giống như nhữ ng cái nhà thờ nhô lên trên thảm cỏ. Tại những nơi cỏ không lên tốt lắm, ngay cả mắt thường cũng có thể trông thấy những đàn linh dươngvà ngựa vằn, hay hàng đàn voi và trâu. Đôi nơi, bọn hươu cao cổ đang nhấp nhô trên bề mặt màu xanh xám của rừng, giống như những con tàu đang rẽ sóng biển. Ngay sát bên sông một nhóm mươi con dê nước đang đùa nghịch, những con khác chốc chốc lại nhô cái đầu mọc sừng từ dưới lên. Còn nơi nước lặng, cứ chốc chốc những con cá mà Cali thường câu được lại nhảy vọt lên, loáng qua như một ngôi sao bằng bạc trong không khí rồi rơi lại vào làn nước. 
Xtas tự nhủ, khi nào trời đẹp, sẽ đưa Nen tới đây để chỉ cho em thấy cái vườn thú này. 
Ngược lại, trên cả “hòn đảo” không hề có những con thú lớn, thay vào đó là hằng hà sa số chim và bướm. Những con vẹt to tướng, trắng như tuyết, có cái mỏ đen tuyền và chỏm đầu vàng, bay trên những khóm cây, những con chim mái nhỏ bé, màu lông tuyệt vời lắc lư trên những cành sắn mảnh mai, ẩn hiện và lóng lánh như những đồ trang sức; từ những hàng dừa cao vút vọng về tiếng những chàng chim cu Phi châu và tiếng chim tu huýt hiền dịu, nghe giống như tiếng than thầm. 
Xtas quay về sau chuyến đi tham quan, lòng đầy sung sướng: 
“Không khí trong lành - em tự nhủ hoàn toàn yên ổn, thực phẩm đầy đủ, và tươi đẹp như thiên đường!” Quay về lều của Nen, em lại thấy rằng, tuy thế trên “hòn đảo” này cũng vẫn có những loài thú to, thậm chí là hai con liền, vì cậu bé Nasibu phát hiện ra, trong thời gian đó, một con dê cái và một chú dê con trong lùm chuối, hẳn là bọ n phiến loạn không kịp cướp nốt đi. Con dê mẹ đã hơi trở thành hoang dã, nhưng chú dê con lập tức quen ngay với Nasibu, cậu bé rất tự hào về điều phát hiện của mình, vì rằng, nhờ đó, hàng này cô bé sẽ có một thứ sữa tươi ngon tuyệt. 
- Bây giờ chúng mình sẽ làm gì, anh Xtas? - Mộthôm Nen hỏi, sau khi bọn trẻ đã “làm chủ” tương đối hoàn hảo trên “hòn đảo”. 
- Nhiều việc lắm, - cậu bé đáp. - rồi xoè những ngón tay ra, em bắt đầu tính toán những công việc phải làm đang chờ đợi chúng: 
- Trước hết, Cali và Mêa là những người ngoại đạo, Nasibu, vốn là người Dandiba nên theo đạo Hồi. Cần phải khai sáng, giáo dục và rửa tội cho cả ba. Thứ hai, cần phải sấy thịt khô chuẩn bị cho chuyến đi, nghĩa là anh sẽ phải đi săn; thứ ba, khi đã có được nhiều súng và đạn, anh muốn dạy cho Cali tập bắn, để cả hai đứa có thể tự vệ; và thứ tư, là có lẽ em đã quên mất chuyện những chiếc diều rồi thì phải? 
- Diều à? 
- Phải, em sẽ dán diều, hoặc tốt hơn, là hãy khâu diều. Đó sẽ là công việc của em. 
- Nhưng em không muốn chơi không. 
- Đó hoàn toàn không phải là trò chơi, mà là công việc, thậm chí có thể là việc làm có ích nhất trong tất cả các việc. Em cũng đừng có nghĩ làm một cái diều là xong đâu, em sẽ phải làm năm mươi cái hay hơn nữa cơ đấy. 
- Làm gì lắm thế anh? - Cô bé tò mò hỏi lại. 
Thế là Xtas bắt đầu hé cho cô bé những dự kiến và hi vọng của mình. Trên mỗi chiếc diều chúng sẽ ghi lên: họ tên chúng là gì, chúng đã thoát khỏi tay bọn phiến loạn ra sao, hiện giờ đang ở đâu và định đi đâu. Chúng sẽ viết rằng chúng cần được cứu giúp và yêu cầu gửi điện báo đến Port Xaiđơ. - Rồi chúng ta sẽ thả những chiếc diều đó lên, khi nào gió thổitừ phía Tây sang phía Đông. 
- Nhiều chiếc - thằng bé nói, - sẽ rơi xuống cách đây không xa, nhiều chiếc sẽ bị vướng núi, nhưng chỉ cần một chiếc bay tới bờ biển và lọt vào tayngười Âu châu là đủ - khi đó chúng mình sẽ đượccứu sống. 
Nen rất thích thú với ý định ấy, cô bé nói rằng ngay cả King cũng không thể nào sánh nổi với Xtas về sự thông minh. Cô bé thậm chí còn tin chắc rằng nhiều cái trong số diều đó sẽ bay tới tận tay cha - và cô hứa sẽ dán diều từ sáng sớm đến tối mịt. Niềm vui của cô bé lớn đến nỗi Xtas lo rằng cô bé lên cơn ấm đầu nên phải hãm bớt nhiệt tình của cô bé lại. 
Kể từ đó, những công việc mà Xtas đã nêu đều được bắt đầu một cách tốt đẹp. Cali được giao nhiệm vụ bắt thật nhiều cá nhảy, đã thôi không dùng cần câu nữa mà nó lấy tre làm thành một cáiđăng ngang dòng sông. Ở giữa đăng có một cái lỗ tomà lũ cá bắt buộc phải chui qua nếu muốn vượt ra khỏi vùng nước đó. Cali dùng một chiếc lưới chắc chắn bằng sợi dây dừa mắc vào cái lỗ này, thế là bằng cách ấy nó bảo đảm hôm nào cũng đánh đượcnhiều cá. 
Để dồn cá vào cái lưới tinh khôn nọ, nó dùng con voi King: nó dắt voi xuống uống nước, sục nước và quẫy cho ầm lên đến nỗi không chỉ riêng những chà ng cá bạc hay nhảy mà tất cả mọi loài sinh vật khác cũng phải cố sức thoát ra khỏi vùng nước bị quấy đục. Tuy nhiên chuyện đó nhiều khi cũng mang lại hậu quả tai hại, vì đôi lần, những con cá sấu chạy trốn làm đăng bị đổ, đôi khi chính con King gây ra chuyện đó, vì hình như nó vốn nuôi sẵn một mối thù bẩm sinh nào đó với bọn cá sấu, nên luôn luôn săn đuổi chúng, và khi chúng dạt lên cạn, nó dùng vòi túm lấy chúng, vứt lên bờ rồi giẫm đạp điên cuồng. 
Vào lưới cũng thường có cả những chú rùa và những vị khách lưu đày trẻ tuổi của chúng ta nấu thịt rùa thành những món xúp ngon lành. Cali làm cá, thịt chúng thường được phơi nắng còn bong bóng thì nó mang về cho Nen, cô bé phanh chúng ra, căng trên tấm gỗ và biến chúng thành phần tư tờ giấy, to bằng hai lòng bàn tay. 
Xtas và Mêa giúp đỡ thêm cô bé trong công việc ấy, vì thực ra đó là công việc hoàn toàn không dễ chút nào. Màng bong bóng dày hơn nhiều so với bóng cá sông của ta, nhưng sau khi phơi khô thì lại trở nên rất giòn. Mãi sau một thời gian, Xtas mới phát hiện ra rằng cần phải phơi chúng trong bóng râm. Tuy nhiên, đôi khi em mất kiên trì, và nếu em không chịu bỏ ý định làm diều bằng bóng cá thì chỉ vì em biết là loại vật liệu này nhẹ hơn giấy và chịu mưa tốt hơn nhiều. Thực ra mùa khô cũng đang đến gần nhưng em không biết chắc liệu về mùa hạ có mưa hay không, nhất là ở vùng núi. 
Tuy vậy, em cũng dán cả những cái diều bằng giấy (em tìm thấy khá nhiều giấy trong số những thứ đồ đạc của ông Linđe). 
Cái diều đầu tiên, to vànhẹ, được thả lên theo gió Tây, đã vọt lên rất cao, và khi Xtas cắt đứt dây, nó bị một luồng không khí rất mạnh mang đi về phía rặng núi Caramôiô. Xtas dùng ống nhòm dõi theo đường bay của nó cho tới khi nó chỉ còn nhỏ như một cánh bướm, như một con ruồi, rồ i chìm hẳn vào màu xanh nhạt của nền trời. Ngày hôm sau em lạ i thả một cái khác, được làm bằng bong bóng cá, chiếc này còn lên nhanh hơn, nhưng cũng nhanh chóng biến mất khỏi tầmmắt hơn, có lẽ là do bong bóng cá trong suốt. 
Nen lao động vô cùng nhiệt tình, kết cục là những ngón tay của cô bé đã trở nên khéo léo đến nỗi Xtas lẫn Mêa cũng không sao theo kịp cô bé trong công việc này. Giờ đây thì cô bé không thiếu sức lực nữa. Khí hậu tốt lành của núi Linđe quả thực đã hồi sinh hoàn toàn cho cô bé. Thời hạn của cơn sốt thứ ba - cơn sốt chết người - trôi qua đã lâu. Ngày hôm ấy, Xtas ẩn người trong đám chuối và khóc lên vì sung sướng. Sau hai tuần ở trên núi em nhận thấy rằng, cô Mdimu Tốt trông khác hoàn toàn so với lúc ở trong rừng dưới kia. Hai má cô bé đầy lên, màu da từ sắc vàng ệch và trong suốt lại chuyển sang màu hồng phơn phớt, đôi mắt tràn đầy ánh sáng long lanh nhìn ra cuộc đời dưới mái tóc rậm. Cậu bé thầm cảm ơn những đêm mát mẻ, cảm ơn nước nguồn trong vắt và bột chuối khô - nhưng trước hết là cầu nguyện cho ông Linđe. 
Còn chính Xtas thì gầy đi và đen hơn. Điều đó chứng tỏ bệnh sốt rét không chạm tới em, vì những người mắc bệnh này không bị rám nắng, em lớn lên và rắn rỏi hơn. Hoạt động và sự lao động chântay đã khiến cho lòng can đảm và sức mạnh của em được tăng cường. Bắp thịt tay của em trở nên rắnnhư thép. Đó quả thực đã là một nhà thám hiểm Phi châu trải nhiều thử thách. Do săn bắn hàng ngày và chỉ dùng đạn săn, nên em trở nên một xạthủ vô địch. 
Em hoàn toàn không còn sợ các loài dã thú nữa, vì hiểu được rằng những “chàng” thợ săn lông xù hay lốm đốm trong rừng gặp em thì nguy hiểm hơn là em gặp bọn chúng. Một lần, chỉ bằng một phát đạn, em hạ ngay một con tê giác khổng lồ, con thú đang ngủ dưới cây xiêm gai tỉnh dậy bất ngờ lao vào húc em. Em cũng không ngán những đàn trâu rừng hăng máu của Phi châu, đã từng nhiều lần đánh bạt cả những đoàn khách thương...



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 36

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Xtas còn dạy cho Cali bắn súng trường rêmingtơn, và môn học này được tiếp thu dễ dàng hơn là môn giáo lí. Sau mười ngày tập bắn bia và bắn những con cá sấu đang ngủ trên bãi cát ven sông, cậu bé da đen đã hạ được một con linh dương puphu, tiếp đó là một con linh dương arien, và cuối cùng là con lợn lòi nơriđi. Tuy nhiên cuộc chạm trán này suýt nữ a cũng kết t húc bằng tai nạn như đã xảy ra với ông Linđe, vì con nơriđi mà Cali tiến đến gần một cách nhẹ sau khi bắn bỗng nhiên bật dậy và lao thẳng vào nó, cái đuôi dựng ngược lên(1). Ném vội khẩu súng, Cali leo ngay lên cây, và ngồi đó cho tới khi tiếng kêu thét của nó khiến Xtas chạy lại, nhưng em chỉ gặp con lợn đã chết. Xtas chưa cho phép cậu bé đi săn trâu rừng, sư tử và tê giác. Còn đối với lũ voi chiều chiều vẫn đến uống nước thì chính em cũng không bắn, vì em đã hứa với Nen là sẽ không bao giờ giết một con voi nào nữa. 
Tuy nhiên, cứ sáng sáng hoặc chiều chiều, khi nhìn qua ống nhòm từ đỉnh núi trông thấy những đàn ngựa vằn, linh dương sừng móc, linh dương arien hoặc sơn dương, em đều dẫn Cali đi theo. Trong những cuộc đi đó em thường hỏi thằng bé về dân tộc Vahima và Xamburu, những người mà bọn trẻ chắc chắn sẽ phải gặp trên đường đi về phíaĐông, về phía đại dương. 
- Cali, cậu có biết rằng, - một lần nọ em hỏi, - hai mươi ngày đường nữa, nếu đi ngựa thì còn nhanh hơn, chúng ta sẽ có thể về tới quê hương của cậu? 
- Cali không biết người Vahima sống ở phương nào, - cậu bé da đen đáp lại và buồn bã lắc đầu. 
- Nhưng tớ biết, họ sinh sống ở phía mà sáng sáng mặt trời mọc, trên bờ một con nước lớn nào đó. 
- Đúng rồi, đúng rồi! - Cậu bé da đen thốt lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ - Baxxa Narốc! Theo tiếng của dân tộc Cali có nghĩa là con nước lớn màu đen.Ông lớn biết hết mọi thứ! 
- Không đâu, vì tớ vẫn chưa biết dân Vahima sẽ tiếp đón chúng ta như thế nào, nếu như chúng ta gặp họ. 
- Cali sẽ ra lệnh cho bọn họ phải cúi mặt xuống trước ông lớn và trước mặt Mdimu Tốt. 
- Thế nếu họ không vâng lời thì sao? 
- Cha Cali được khoác da báo, và Cali cũng thế mà. 
Xtas hiểu như thế có nghĩa là cha Cali là vua, còn thằng bé là con trưởng của ông và sẽ là vị vua tương lai của người Vahima. 
Em bèn hỏi tiếp: 
- Cậu bảo rằng có những người khách thám hiểm da trắng từng đến quê hương cậu, và người già vẫn còn nhớ họ phải không? 
- Vâng, Cali còn nghe nói rằng, họ mang trên đầu những vòng khăn to tướng. 
“Ôi! - Xtas nghĩ thầm - Như vậy, đó không phải là người Âu, mà chỉ là người Ả Rập thôi, vì nước da của họ sáng màu hơn cùng những bộ quần áo trắng của họ, nên người da đen tưởng họ là người da trắng”. 
Song vì Cali không còn nhớ và không thể giải thích gì được rõ ràng hơn nữa, nên Xtas bèn đặt cho nó một câu hỏi khác: 
- Người Vahima có giết ai trong số những người vận quần áo trắng ấy không?
- Không. Người Vahima cũng như người Xamburu không thể làm việc đó đâu. 
- Tại sao thế? 
- Vì bọn họ nói rằng, nếu như máu của họ ngấm vào đất thì mưa sẽ không rơi xuống nữa. 
“Mình rất mừng là họ tin vào điều đó!” - Xtas nghĩ thầm. 
Rồi em hỏi tiếp: 
- Liệu người Vahima có đi cùng chúng ta đến tận biển lớn hay không? Nếu như tớ hứa sẽ tặng cho họ nhiều lụa, chuỗi hạt cườm và nhiều súng ống? 
- Cali sẽ đi, người Vahima cũng đi, nhưng trước tiên ông lớn phải đánh được người Xamburu đã, vì họ ở bên kia con nước. 
- Tiếp sau người Xamburu là ai ở? 
- Tiếp sau người Xamburu không có núi, chỉ có rừng, trong rừng toàn sư tử thôi. 
Cuộc trò chuyện kết thúc ở đó. Giờ đây càng ngày Xtas càng hay nghĩ tới chuyến đi lớn sangphía Đông, em nhớ những gì ông Linđe nói, rằng cóthể gặp được người Ả Rập vùng duyên hải chuyên buôn bán ngà voi, cũng như những đoàn truyền giáo. Em hiểu rằng, đối với Nen, chuyến đi này sẽ là một chuỗi ngày mệt nhọc và những nỗi nguy hiểm mới, nhưng em cũng hiểu rằng, chúng không thể ở lại núi Linđe cả đời được, và cần phải lên đường trong thời gian tới. Giai đoạn sau mùa mưa, khi nước hãy còn bao phủ những vùng lầy đầy bệnh tật, khi khắp nơi hãy còn đang có nước, là thời gian thích hợp nhất để lên đường. Trên những đỉnh cao, cái nóng chưa tác động mấy đến bọn trẻ, ban đêm thường lành lạnh, khiến chúng phải đắp kín người. Nhưng trong rừng phía dưới vùng thấp kia nóng hơn nhiều và chắc chắn sắp tới sẽ còn nóng nực hơn nữa. Hiện giờ mưa ít khi thấm đất, càng ngày mực nước sông càng xuống thấp. Xtas đoán rằng về mùa hè con sông rất có thể sẽ trở thành một trong những khe cạn như những chiếc khe mà em đã gặp trên sa mạc Libi, những khe mà chỉ chính giữa lòng mới có một vệt nước nhỏ bé mà thôi. 
Tuy vậy, em vẫn cứ hoãn chuyến đi từ ngày này sang ngày khác. Trên núi Linđe mọi thứ mới dễ chịulàm sao, cả cho người lẫn cho súc vật! Ở đây, không những Nen chỉ thanh toán hoàn toàn với bệnh sốt rét mà cả với chứng thiếu máu nữa, Xtas thì không còn thấy nhức đầu, còn da của Cali và Mêa thì bắt đầu bóng như xatanh đen. Nasibu trông cứ như một quả dưa bở di động trên cặp chân khẳng khiu, còn King thì xơi cỏ không kém gì lũ ngựa và lừa. 
Xtas biết rõ rằng giữa biển rừng mông mênh kia cho đến cuối cuộc hành trình, cũng không thể tìm đâu ra một “hòn đảo” thứ hai như thế này nữa. 
Và em lo ngại nhìn về tương lai, mặc dù giờ đây bọn trẻ đã có con King trợ sức đắc lực, thậm chí khi cần nó còn là người bảo vệ tin cẩn. 
Cứ thế, trước khi chúng kịp chuẩn bị lên đường, đã một tuần lễ nữa trôi qua. Trong những giây phút rảnh rỗi không phải đóng gói đồ đạc, bọn trẻ vẫn không ngừng thả những chiếc diều mới với ghi chúrằng chúng sẽ đi về phía Đông, về phía một cái hồ nào đó, về phía đại dương. Chúng tiếp tục thả thêm diều vì có một luồng gió mạnh, nhiều khi mạnh như bão, thổi từ phía Tây, gió cuốn những chiếc diềumang tít đi xa, về phía núi và sang bên kia núi. 
Để tránh cho Nen khỏi bị cháy nắng Xtas lấy những mảnh lều còn lại làm một cái bành đặt trên lưng voi dành cho cô bé ngồi. Sau vài lần thử, con King đã quen với cái trọng lượng nhỏ nhoi ấy và cũng quen với việc buộc bành lên lưng nó bằng những sợi dây dừa rất chắ c. Vả chăng, cái này cũng chỉ là một chiếc lông bên cạnh những thứ đồ khác mà nó sẽ phải chở, những thứ đồ mà Cali và Mêa phải phân bổ và gói buộc. 
Cậu bé Nasibu được lệnh phải xay chuối khô và chà là thành bột bằng cách dùng hai phiến đá phẳng. King giúp nó thêm trong việc dứt đứt những cuống buồng nặng; thêm vào đó cả hai chén chuối nhiều đến nỗi chẳng mấy chốc khu vực gần đó đã sạch nhẵn chuối, chúng phải đi tới những cánh đồng khác, nằm phía bên kia đỉnh núi. Xaba, vốn không có việc gì làm, thường cùng đi với chúng trong những chuyến đi ấy. 
Nhưng chút nữa thì cậu bé Nasibu phải trả giá cho sự năng nổ ấy bằng chính tính mạng của mình, hay ít ra cũng bằng một cảnh nô lệ đặc biệt. Có lần, lúc đang lấy chuối trên một sườn đá dốc, nó bỗng trông thấy trong khe đá một bộ mặt gớm ghiếc, đầy lông đen, mắt chớp chớp nhìn vào nó, răng nanh trắng nhởn nhe ra dường như đang cười. Cậu bé kinh hoàng đứng sững như hóa đá, sau đó bắt đầu chạy thục mạng. Nhưng nó chỉ kịp chạy mươi bước chân thì một cánh tay lông lá xồm xoàm đã ôm quanh người nó, nhấc bổng lên cao và con quái vật đen như than bắt đầu bế nó lao xuống vực. 
May thay, con đười ươi khổng lồ chỉ có thể chạy bằng hai chân vì còn bế thằng bé, vì thế Xaba đang ở gần đó kịp đuổi theo và cắm nanh vào lưng nó. Một cuộc chiến đấu kinh khủng diễn ra, trong đó, mặc dầu có vóc dạng to lớn và sức lực có thừa, con chó chắ c chắn sẽ phải chết, vì giống đười ươi này thậm chí còn có thể thắng cả sư tử(2). Nói chung loài khỉ không có thói quen buông những vật cướp được ra khỏi tay, cho dù tự do hay tính mạng chúng có thể bị đe dọa chăng nữa. Bị cắn từ sau lưng, con đười ươi không dễ dàng túm được Xaba, tuy thế nó cũng đã dùng tay trái túm lấy cổ con chó, nhấc bổng nó lên cao, thì vừa lúc đó đất rung rinh dưới những bước chân nặng trịch - và King chạy tới. 
Chỉ cầ n một cú đánh nhẹ bằng vòi là “con ma rừng” khủng khiếp - như người da đen thường mệnh danh cho bọn đười ươi - đã gục ngay xuống với cái sọ và gáy vỡ nát. Song để chắc chắn hơn, hoặc do tính nóng nảy bẩm sinh, King còn dùng ngà đóng đinh con vật xuống đất, rồi sau đó vẫn tiếp tục trả thù nó, cho đến khi Xtas cầm súng từ phía lều chạy tới - sau khi nghe thấy những tiếng kêu và tiếng rống khiến em không yên - và ra lệnh cho nó, nó mới chịu thôi. 
Con đười ươi đang nằm trong vũng máu, Xaba liếm máu nó, máu cũng giây đỏ cả ngà của King.Đó quả là một con vật to lớn, mắt trợn ngược, răng nhe ra, dẫu đã chết rồi mà trông hãy còn khủng khiếp. Con voi rống lên nhữ ng tiếng kêu khải hoàn, còn cậu bé Nasibu tái người đi vì sợ hãi thuật lại cho Xtas nghe chuyện vừa xảy ra. Xtas suy nghĩ giây lát xem có nên đưa Nen đến và chỉ cho cô bé xem con vật khủng khiếp này không, nhưng rồi cậu bé bỏ ý định đó đi, vì đột nhiên bản thân em cũng bị nỗi sợ hãi chế ngự. 
Chính Nen cũng thường đi lang thang một mình trên cả “hòn đảo” nên cô bé cũng có thể gặp chuyện tương tự. 
Hóa ra núi Linđe không phải là nơi ẩn náu hoàn toàn yên ổn như thoạt đầu bọn trẻ tưởng. 
Xtas quay về căn lều và thuật lại cho Nen chuyện vừa xảy ra, cô bé lắng nghe, vừa tò mò vừa sợ hãi, mắt mở to, chốc chốc lại lặp đi lặp lại: 
- Anh thấy chưa, thiếu con King thì đã xảy rachuyện rồi! 
- Đúng thật! Với một người bảo mẫu như thế nàythì có thể không cầ n phải lo lắng cho đứa trẻ, cho nên cho tới khi nào chúng ta lên đường, em không được đi một bước nào nếu không có nó, nghe chưa? 
- Thế bao giờ chúng mình đi, anh? 
- Lương thực đã chuẩn bị xong, hàng hóa đã sắp xếp cả rồi, nghĩa là chỉ cần chất lên lưng súc vật nữa là chúng ta có thể lên đường ngay ngày mai cũng kịp. 
- Về với ba! 
- Nếu như Chúa cho phép, - Xtas đáp lại vẻtrang nghiêm. 
-------------. 
1 Lợn lòi Phi châu có đầu bẹt, nanh tròn chứ không phải hình tam giác và cái đuôi khá dài, khi chúng húc thì đuôi dựng đứng (Chú thích của tác giả). 
2 Đười ươi sinh sống ở vùng rừng Tây Phi, tuy nhiên ôngLivingstone đã gặp chúng ngay cả ở miền Đông. Chúng thường bắtcóc trẻ con. Đười ươi miền Đông ít dữ tợn hơn miền Tây, vì khi đã bị thương chúng không giết thợ săn, mà chỉ gặm nát các ngón tay của người đi săn mà thôi (chú thích của tác giả).



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 37

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Tuy vậy cũng phải mấy ngày sau cuộc trò chuyện ấy bọn trẻ mới lên đường được. Chúng khởi hành vào sáu giờ sáng, cùng lúc với rạng đông, sau một lúc cầu nguyện, trong đó chúng thành khẩncầu xin Đức Chúa. Xtas cưỡi ngựa dẫn đầu, chỉ có Xaba là chạy phía trước nó. Sau Xtas là con King bước đi đĩnh đạc, tai ve vẩy, mang trên cái lưng đồ sộ của mình cái bành bằng vải, trong bành là Nen cùng với Mêa. Tiếp đó là lũ ngựa của ông Linđe bước thành một hàng, được nối với nhau bằng dây thừng làm bằng sợi dừa, chở các thứ đồ vật khác nhau, còn chú bé Nasibu đi cuối đoàn, cưỡi lên con lừa cũng đen như chú. 
Vì đang buổi sáng sớm nên cái nóng bức chưa căng thẳng mấy, tuy ngày hôm ấy đẹp trời, và phía sau rặng núi Caramôiô mặt trời rực rỡ nhô lên, không bị một đám mây nào che cả. Hơi gió đông làm dịu bớt cái nóng của những tia mặt trời. Chốc chốc lại nổi lên một đợt gió khá mạnh khiến cho cỏ bị rạp xuống và cả rừng dậy sóng như biển. Sau những trận mưa to, mọi loài thảo mộc lên xanh tốt, nên ở những chỗ thấp, không những chỉ có lũ ngựa hoàn toàn ngập trong cỏ mà thậm chí cả con King nữa, khiến cho người ta chỉ có thể trông thấy cái bành màu trắng nhấp nhô trên đầu cỏ xanh non, di động lên phía trước như một con tàu trên mặt hồ. 
Sau một giờ đi đường trên một vùng hơi cao khô ráo, nhô lên ở phía đông núi Linđe, bọn trẻ gặp những cây cúc gai khổng lồ(1), có thân to như cây gỗ, hoa lớn như đầu người. Trên một số sườn đồi mà trông xa cứ ngỡ đồi trọc chúng thấy những cây hoa thạch thảo cao tới tám mét(2). Những loài cây khác-ở châu Âu được xếp vào loài cây nhỏ bé nhất - thìở đây cũng có tầm vóc sánh ngang với cây cúc gai hoặc thạch thảo, còn những cây thân gỗ đơn độc mọc trên cánh rừng, trông cứ như những cái nhà thờ vậy. Đặc biệt là những cây họ sung, được gọi là đarô, có những cành khi chạm vào đất liền biến thành những chiếc thân cây mới, lấn chiếm một khoảng đất rộng lớn đến nỗi một cây như thế làm thành cả một lùm riêng biệt vậy. 
Trông xa, vùng này cứ như một khu rừng liên tục nhưng đến gần thì hóa ra những cây lớn mọc cách nhau, chừng mươi hay vài chục bước chân. Phía Bắc chỉ thấy rất ít cây to, vùng đó mang đặc điểm thảo nguyên núi được bao phủ bởi một khu rừng bằng phẳng, trên đó chỉ có những cây xiêm gai, hình cái ô nhô lên mà thôi. Cỏ ở đó xanh thẳm hơn, thấp hơn và rõ ràng là thức ăn tốt hơn cho súc vật, vì Nen ngồi trên bành voi cũng như Xtas khi đi lên những gò cao đều trông thấy những đàn linh dương đông đảo mà chúng chưa từng trông thấy baogiờ. Đôi khi, chúng gặm cỏ riêng từng loại, đôi khi lại chen lẫn nhiều loại với nhau: linh dương gơnu, puphu, arien, sơn dương, bò, linh dương sừng móc và những con cuđu to lớn. Không thiếu mặt cả ngựa vằn và hươu cao cổ. Trông thấy đoàn người, cả đàn ngừng ăn cỏ, ngẩng đầu và vểnh tai lên nhìn cái bành trắng, vẻ vô cùng kinh ngạc, rồi ù té chạy trong một chớp mắt. Nhưng chỉ chạy được vài trăm bước chân, chúng lại dừng lại, ngoảnh nhìn cái vật lạ lùng, rồi sau khi đã hết tò mò, chúng lại tiếp tục bình thản gặm cỏ. Thỉnh thoảng một con tê giác bật lên ngay trước gần đoàn người, trong tiếng động ầm ầm và dữ tợn nhưng trái với bản chất nóng nảy và sẵn sàng tấn công tất cả những gì lọt vào mắt nó, nó chạy thục mạng khi trông thấy King, và chỉ có mệnh lệnh của Xtas mới khiến con voi dừng lại không đuổi theo. 
Voi Phi châu căm thù tê giác, nếu như chúng tìm thấy dấu vết còn mới của con vật này, bao giờ cũng lấy hết sức lao theo cho tới khi tìm thấy đối thủ và đấu sức với nó; trong những cuộc chiến đấu đó, kẻ thất bại bao giờ cũng là tê giác. Con King, hẳn là đã thuần và quen xem Xtas như người chỉ huy của mình, nên chỉ cần nghe tiế ng cậu bé và nhận thấy cặp mắt nhìn nghiêm khắc của cậu, là con voi vội hạ cái vòi đã giơ cao xuống, cụp tai lại và bước đi tiếp. Bản thân Xtas cũng muốn được trông thấy cuộc chiến đấu giữa hai con vật khổng lồ nọ, nhưng nó lo cho Nen. Nếu như con voi chạy nước đại, cái bành có thể đứt tung mất, hay tệ hơn, con vật khổng lồ có thể làm nó vướng vào một cành cây nào đó, khi ấy mạng sống của Nen sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Qua những sách mô tả việc đi săn đọc hồi còn ở Port Xaiđơ, Xtas được biết rằng nhữngngười săn hổ ở Ấn Độ không sợ hổ bằng sợ voi vội vã hay mải săn đuổi làm bành vướng vào cây. Và cuối cùng nữ a, bản thân cái nước đại của “chàng” khổng lồ này khó chịu đến nỗi không ai có thể chịu đựng được lâu mà không hại tới sức khỏe. 
Tuy nhiên, mặt khác, sự có mặt của con King cũng xua đi nhiều nỗi nguy hiểm. Những con trâu rừng dữ tợn và hung hăng mà bọn trẻ gặp trong ngày hôm ấy, lúc chúng đang đi tới một cái hồ nhỏ, nơi các loài thú trong vùng tụ tập lại buổi chiều, cũng bỏ chạy khi trông thấy con voi, và vòng suốt bờ hồ để sang phía bên kia uống nước. Ban đêm, bị buộc một chân sau vào cây, King canh giữ cái lều mà Nen đang ngủ, đó là một người lính canh tin cậy đến nỗi tuy Xtas vẫn bảo đốt lửa nhưng em coi việc vây hàng rào gai quanh trại là không cần thiết, mặc dù em biết rằng trong một vùng có những đàn linh dương đông đúc như vậy sinh sống, thì không thiếu mặt sư tử. Ngay trong đêm hôm ấy, mấy con sư tử gầm thét trong khóm cây cảm lảm to lớn mọc trên sườn núi(3). Mặc dù có ánh lửa chiếu sáng, nhưng lũ sư tử, bị hấp dẫn bởi mùi ngựa, vẫn tiến gần lại phía trại; song tới khi con King bị quấy rầy bởi tiếng rống của chúng, khi trong đêm thanh vắng đột nhiên vang lên như tiếng sấm động giọng “baritus” kinh khủng của nó(4) - thì lũ sư tử liền câm bặt, hẳn là chúng hiểu rằng không nên cố tiếp xúc gần gũi hơn với loại “nhân vật” như thế làm chi! Bọn trẻ ngủ ngon trong phần còn lại của đêm và mãi đến sáng chúng mới lên đường đi tiếp. 
Song đối với Xtas lại bắt đầu những lo lắng và suy nghĩ mới. 
Trước nhất em hiểu rằng cả đoàn đi rất chậm và không thể đi được quá mười cây số mỗi ngày. Theo tốc độ này thì mất một tháng cũng tới được biên giới Abixinia, nhưng vì Xtas đã quyết định là trong mọi chuyện sẽ hành động theo lời khuyên của ông Linđe, mà ông Linđe lại khẳng định một cách quả quyết rằng bọn trẻ không thể nào vượt sang Abixinia nổi, nên chỉ còn lại con đường đi đến đại dương mà thôi. Song theo tính toán của người Thuỵ Sĩ ấy thì chúng còn cách đại dương khoảng trên nghìn kilômét nữa - đó là tính theo đường chim bay, chứ thực ra thành phố Mombaxa nằm lệch về phía Nam còn xa hơn nữa thế có nghĩa là cả cuộc hành trình phải kéo dài mất ba tháng. Xtas lo sợ nghĩ rằng, đó là ba tháng trời khốn khổ, mệt nhọc và nguy hiểm về phương diện những bộ lạc da đen mà bọn trẻ có thể sẽ phải chạm trán. Chúng hiện vẫn đang đi trong vùng trắng đã bị dịch đậu mùa và tin tức về những chuyến tảo thanh của bọn phiến loạn khiến cho dân chúng bạt đi, nhưng nói chung châu Phi vốn đông người sinh sống, nên trước hay sau gì chúng cũng sẽ đi vào rừng có những bộ lạc xa lạ cư trú, những bộ lạc này thường bị thống trị bởi những vị tiểu vương hoang dã và độc ác. Thật không phải là một chuyện đơn giản để có thể giữ được mạng sống và tự do khi trải qua những cái lò lửa như vậy. 
Xtas chỉ tính đơn giản rằng, nếu như bọn trẻ gặp trúng người Vahima thì chúng sẽ huấn luyện cho khoảng vài mươi chiến sĩ của dân tộc này biết bắn súng, rồi dùng những phần thưởng lớn hứa với họ để họ đồng ý tháp tùng hai đứa tới tận đại dương. Song Cali không hề biết những bộ lạc người Vahima hiện sinh sống nơi đâu, còn ông Linđe có nghe chút ít về họ nhưng cũng không thể chỉ đường đi đến với họ, cũng không chỉ được chính xác vùng họ đang cưtrú. Ông Linđe có nhắc đến một cái hồ lớn nào đó mà ông được nghe nói tới, Cali thì cam đoan rằng người Vahima sinh sống trên một bờ của cái hồ đó, được gọi tên là Baxxa Narốc, còn người Xamburu thì sinh sống ở bờ hồ phía bên kia. Xtas lo ngại chính vì rằng, môn địa lí châu Phi mà em được dạy rất kĩ trong trường học ở Port Xaiđơ không hề nói tới cái hồ có tên như thế. Giá như chỉ có mỗi mình thằng bé Cali nói với em về chuyện đó, thì hẳn là em sẽ cho rằng đó là hồ Vichtoria Nianza, nhưng về chuyện đó thì ông Linđe không thể nào nhầm lẫn được, vì chính ông đã từ hồ Vichtoria đi lên phía Bắc, dọc theo rặng núi Caramôiô, và qua những tin tức thu thập được của thổ dân trong dãy núi này, ông đã đi đến kết luận rằng cái hồ bí ẩn nọ nằm xahơn nữa về phía Đông và phía Bắc. Xtas không biết nghĩ về tất cả những chuyện đó thế nào, nhưng em e rằng sẽ không gặp được cả cái hồ đó lẫn người Vahima, em còn lo sợ cả những bộ lạc dã man, sợ những vùng rừng hoang thiếu nước, những dãy núi không thể băng qua, sợ ruồi tsetse sẽ giết chết súc vật, sợ bệnh ngủ, sợ bệnh sốt rét cho Nen, sợ cái nóng bức và sợ những vùng đất mênh mông đang chia cách chúng với đại dương. 
Nhưng sau khi rời khỏ i núi Linđe không còn con đường nào khác ngoài việc tiến lên phía trước, cứtiến mãi, tiến mãi về phía Đông. Ông Linđe có nói rằng đó là một cuộc hành trình vượt quá sức người thám hiểm nhiều nghị lực và giàu kinh nghiệm, song Xtas cũng đã thu được rất nhiều kinh nghiệm, còn nếu về nghị lực, thì vì Nen em quyết sẽ khai thác triệt để bản thân mình. Lúc này cần phải tiết kiệm sức lực cho cô bé, nên em quyết định chỉ đi từ sáu giờ sáng tới mười giờ trưa, còn giai đoạn thứ hai từ ba giờ tới sáu giờ chiều, nghĩa là tới khi mặt trời lặn, chỉ tiến hành khi nào chỗ nghỉ chân thứ nhất không có nước mà thôi. 
Lúc này, vì trong mùa mưa dầm, nên mọi nơi đều có nước. 
Những chiếc hồ do nước mưa đọng trong cá c lòng thung hãy còn rất đầy, từ trên núi thỉnh thoảng lại có những dòng suối nước trong như pha lê và mát lạnh chảy xuống, tắm trong những dòng suối đó vừa tuyệt diệu vừa an toàn vì lũ cá sấu chỉ sinh sống ở những vùng nước lớn, nơi không thiếu cá là thức ăn chính cho chúng. 
Tuy nhiên, Xtas không cho phép cô bé uống nước lã, mặc dù em được thừa hưởng của ông Linđe một bình lọc rất tốt mà hoạt động của bình bao giờ cũng khiến cho Cali và Mêa ngạc nhiên. Khi nhìn thấy cái bình lọc nhúng vào nước đục ngầu nhưng lại chỉ cho chảy vào bình chứa thứ nước trong vắt thì cả hai lăn ra cười, đập đập tay vào đầu gối tỏ ý kinh ngạc và vui sướng. 
Nói chung, ban đầu, chuyến đi khá thuận lợi.Được thừa hưởng của ông Linđe rất nhiều thức ăn dự trữ: cà phê, chè, đường, viên canh, nhiều loại đồ hộp khác nhau và đủ loại thuốc, Xtas không cần phải tiết kiệm đạn, vì đạn có nhiều hơn số mà bọn trẻ có khả năng mang theo. Chúng không thiếu những vật dụng đủ mọi loại khác, nhiều cỡ súng khác nhau và đạn pháo hiệu, thứ đạn mà trong những cuộc chạm trán với người da đen có thể rất có tác dụng. Vùng đất này mầu mỡ, đầy các giống thú rừng, nghĩa là không thiếu thịt tươi. Hoa quả cũng thế. Thảng hoặc, ở những vùng trũng, bọn trẻ gặp phải bùn lầy, nhưng bùn lầy hãy còn bị nước bao phủ nên không làm ô nhiễm không khí bằng những mùi hôi thối khó chịu. Trên cao nguyên không hề có giống muỗi truyền bệnh sốt rét cho máu người. Từ mười giờ sáng trở đi, trời nóng nực rất khó chịu, nhưng trong những giờ được mệnh danh là “giờ trắng” ấy, những người bộ hành nhỏ bé của chúng ta dừng chân dưới bóng mát của những cây gỗ to, không một tia nắng mặt trời nào lọt nổi qua tán lá của chúng. Sức lực của Nen, Xtas và bọn trẻ da đen vẫn đang rất dồi dào. 
-----------. 
1 Echinops giganteus, thường mọc ở vùng này, và thường rất tốt ở vùng nam Abixynia (theo Slisee Reclus: Địa dư - Chú thích của tác giả). 
2 Theo Slisée Reclus. (Chú thích của tác giả). 
3 Cây cảm lảm ở Abixinia và trong núi Caramôiô có thể cao tới năm mươi mét. Theo Slisée Reclus (chú thích của tác giả). 
4 Người La Mã gọi những tiếng hát hay tiếng thét xung trận của các quân đoàn và của người Giécman, cũng như tiếng voi rống bằng tên gọi này.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 38

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Ngày thứ năm của cuộc hành trình, Xtas đi cùng với Nen trên lưng con King, vì bọn trẻ gặp phải một rặng xiêm gai mọc dầy đến nỗi ngựa chỉ có thể đi theo con đường voi đã mở ra mà thôi. 
Bấy giờ là sáng sớm, một buổi sáng nắng lộng lẫy và nhiều sương. 
Bọn trẻ trò chuyện với nhau về chuyến đi, mỗi ngày chúng càng đến gần đại dương hơn, đến gần cha hơn, những người cha mà hiện nay chúng nhớ nhung vô hạn. Từ lúc chúng bị bắt cóc ở Phaium tới nay, đó là chủ đề của biết bao nhiêu cuộ c trò chuyện, những cuộc chuyện trò bao giờ cũng khiến bọn trẻ cảm động rơi lệ. 
Chúng cứ nhắc đi nhắc lại mãi: cha của chúng đang nghĩ rằng cả hai hoặc là đã không còn sống trên đời nữa, hoặc là đã mất đi vĩnh viễn, hai ông buồn phiền, tuy thế họvẫn thường xuyên phái những người Ả Rập tới Kháctum, rất xa cả Phasôđa nữa, sau năm ngày đường nữa còn xa hơn, rồi sau đó lại cứ xa thêm mãi, mãi cho tới khi tới được đại dương, hoặc trước đó, tới được một chỗ có thể đánh điện. Người duy nhất trong cả đoàn biết được những gì đang chờ đợi là Xtas, còn Nen thì đang tin tưởng rất sâu sắc rằng, không có việc gì trên đời này Xtas không thể làm được, và cô bé hoàn toàn tin chắc rằng Xtas sẽ đưa được cô tới bờ đại dương. Cho nên nhiều lần cô bé vượt trước sự kiện để hình dung trong cái đầu óc nhỏ bé của mình những gì sẽ diễn ra khi tin tức đầu tiên về bọn trẻ đến được tay các ông bố - và líu lo như một con chim non, Nen kể cho Xtas nghe những điều tưởng tượng đó. “Các ba đang ngồi - cô bé nói, - ở Port Xaiđơ và than khóc, bỗng nhiên có một thằng bé mang tới bức điện. Cái gì thế này? Ba em hoặc ba anh sẽ mở điện ra, nhìn chữ kí và đọcthấy: Xtas và Nen! Ô, đến lúc ấy cả hai mới sung sướng nhé, cả hai ông bố mới bật ngay dậy để điđón chúng mình. Đến khi ấy cả nhà mới náo nức cả lên, cả hai ba cùng mừng - tất cả mọi người đều ca ngợi anh - rồi mọi người tới đây - rồi em sẽ ôm thật chặt cổ ba, rồi sau đó chúng mình sẽ mãi mãi bên nhau... rồi...” Và mọi sự kết thúc ở chỗ là cái cằm nhỏ bé của cô bé bắt đầu run run, đôi mắt tuyệt đẹp biến thành hai “đài” phun nước, rồi ngả đầu vào vai Xtas, cô bé khóc òa lên vì buồn, vì nhớ và vì vui sướng với ý nghĩ về cuộc sum họp trong tương lai. Còn Xtas, với trí tưởng tượng bay bổng vào tương lai, em đoán rằng cha em sẽ tự hào về em, ông sẽ nói: “Con khá lắm, xứng đáng là một người Ba Lan chân chính”! Em vô cùng xúc động, trong trái tim tràn ngập nhớ nhung, nhiệt tình và lòng quyết tâm không thể nào bị nhụt, rắn như thép. “Ta phải cứu bằng được Nen - em nhủ thầm - ta phải sống bằng được tới cái giây phút ấy!” Và khi ấy, chính em cũng cảm thấy rằng, không có nỗi hiểm nguy nào mà em không thể chiến thắng, không có trở lực nào em không thể san bằng. 
Nhưng đến chiến thắng cuối cùng hãy còn xa lắm. Lúc này bọn trẻ đang phải băng qua rừng cây xiêm gai. Những cái gai dài của loài cây này vạch nên những vết xước màu trắng ngay cả trên làn da của con King. Nhưng mãi rồi rừng cây cũng thưa dần, và qua những cành cây ngổn ngang đã có thể trông thấy rừng xanh xa xa. Mặc dù cái nóng đã khiến em thấm mệt, Xtas vẫn tụt xuống khỏi bành, lên ngồi trên đầu voi để trông xem có thấy những đàn linh dương hay ngựa vằn phía trước hay không, vì em quyết định phải củng cố số thịt dự trữ. 
Về phía bên phải em trông thấy một đàn linh dương arien chừng vài chục con, lẫn giữa chúng là hai con đà điểu, nhưng khi cả bọn vừa đi qua lùm cây cuối cùng và con voi quành về phía trái, thì một cảnh hoàn toàn khác hẳn đập vào mắt cậu bé: ở cách đó chừng nửa cây số, em trông thấy những nương sắn rộng, và ở rìa nương là hơn chục bóng người màu da đen, hình như đang bận làm đồng. 
- Người da đen! - Em quay lại phía Nen kêu lên. 
Tim em bắt đầu đập nhịp lo lắng. Em do dự một hồi không hiểu có nên quay lại ẩn vào rừng xiêm gai hay không, nhưng em chợt nghĩ rằng, trong một vùng dân cư đông đúc, thì sớm hay muộn cũng sẽ phải gặp dân, phải quan hệ với họ, và tuỳ thuộc vào những mối quan hệ đó, số phận của cả đoàn sẽ được định đoạt, nên sau khi suy nghĩ một chút, em hướng con voi đi về phía cánh đồng. 
Chính vào lúc ấy Cali cũng tiến lại gần, và trỏ tay vào phía rặng cây, nó bảo: 
- Ông lớn, kia là một làng của người da đen, cònđây là những người đàn bà đang làm nương sắn. Cali có phải vào làng không? 
- Chú ng ta sẽ cùng vào làng, - Xtas đáp - cậu sẽnói cho họ biết rằng chúng ta đến đây như những người bạn. 
- Thưa ông chủ, Cali biết sẽ phải nói với họ điềugì, - cậu bé da đen kêu lên vẻ đầy tự tin. 
Rồi quay ngựa về phía những người đang làm nương, nó đưa tay lên miệng là m loa và gọi to lên: 
- Yamco, he! Yambo sana! 
Nghe thấy tiếng gọi này những người đàn bà đang đào sắn bật dậy và đứng như trời trồng, nhưng chuyện đó chỉ kéo dài trong nháy mắ t, vì ngay sau đó, họ vứt hết thuổng cuốc, vừa kêu ré lên vừa ù té chạy về phía những rặng cây bao quanh làng. 
Nhữ ng người bộ hành trẻ tuổi thong thả và bình tĩnh tiến lại gần làng. Trong rặng cây có tiếng hú hét của hàng trăm con người, rồi đột nhiên im lặng bao trùm. Tiếp theo đó là tiếng trống trầm hùng vang động phá vỡ bầu không khí im lặng, tiếng trống về sau không ngừng lại một giây phút nào cả. 
Rõ ràng đó là hiệu lệnh chiến đấu cho các chiến sĩ, vì hơn ba trăm người bỗng nhô ra khỏi rặng cây. Tất cả dàn thành một hàng dài trước làng, Xtas cho voi dừng lại cách chừng trăm bước chân và bắt đầu ngắm nghía họ. Mặt trời chiếu sáng những thân hình lực lưỡng của họ, những lồng ngực rộng rãi, những cánh tay khỏe mạnh. Họ được vũ trang bằng cung tên và giá o mác. Chung quanh đùi họ che một chiếc quần ngắn làm bằng cây thạch thảo, một sốngười khác - bằng da khỉ. Đầu họ mang những chiếc lông chim đà điểu, lông vẹt, hoặc những túm lông lởm chởm, đầu vượn. Trông họ thật thiện chiến và dữ dằn, nhưng họ lại đứng bất động trong im lặng, vì sự kinh ngạc của họ quá lớn, khiến cho ý muốn đánh nhau bị đè bẹp đi. Mọi cặp mắt đều dán vào con King, vào cái bành màu trắng và vào người da trắng đang ngồi trên đầu voi. 
Voi đối với họ không phải là một con vật xa lạ gì. Họ sống triền miên trong bạo lực của voi, những đàn voi đêm đêm tàn phá những nương sắn, những vườn chuối cùng những vườn cọ đum của họ. Vì giáo và tên không xuyên thủng được da voi nên những người da đen tội nghiệ p nọ đành phải chiến đấu với chúng bằng lửa, bằng tiếng kêu la, bằng cách giả tiếng gà, bằng cách đào những hố sâu và đặt bẫy bằng những cây gỗ. Thế nhưng chưa một ai trong đời được trông thấy, thậm chí chưa một ai nghĩ tới chuyện voi có thể trở thành nô lệ cho người và để cho người ngồi lên cổ. Chính vì thế, cái cảnh đang ở trước mắt họ đây kia vượt quá xa mọi khái niệm và trí tưởng tượng của họ, khiến họ không biết nên làm gì: 
chiến đấu hay chạy trốn để mặc cho số phận định đoạt mọi sự. 
Cho nên, trong nỗi phấp phỏng, lo sợ và kinh ngạc, họ chỉ biết thì thào bảo nhau: 
- Mẹ ơi! Không biết cái giống gì đến với chúng tavà cái gì đây đang chờ chúng ta với bàn tay của hắn? 
Khi đó, Cali bèn tiến đến cách họ một tầm phóng lao, đứng nhổm dậy trên bàn đạp và gọi to lên: 
- Hỡi các người, các người! Hãy nghe đây tiếng nóicủa Cali, con trai Phumba, vị vua hùng cường củangười Vahima trên bờ Baxxa Narốc! Ô! Hãy nghe, hãy nghe đây! Nếu như các người hiểu được tiếng nói của hắn, thì hãy chú ý đến từng lời của hắn! 
- Chúng ta hiểu! - Tiếng đáp lại từ ba trăm cáimiệng nghe vang động. 
- Vậy thì xin mời vua của các người hãy bước ra,hãy nói rõ tên họ của mình, hãy mở thật to tai và miệng để nghe cho rõ! 
- M'Rua! M'Rua! - Nhiều giọng xôn xao kêu lên. 
M'Rua bước lên trước hàng người, nhưng khôngquá ba bước chân. Đó là một người da đen đã già, cao to lực lưỡng, nhưng hình như không mấy can đảm, vì bắp đùi run run đến nỗi ông ta phải cắm cây giáo xuống đất và tì vào cán gỗ mới có thể đứng vững nổi trên đôi chân. 
Theo gương của ông ta, các chiến sĩ khác cũng cắm ngược mũi giáo xuống đất, tỏ ý rằng họ muốn được nghe một cách ôn hòa lời nói của vị khách mới tới. 
Còn Cali cất giọng cao hơn nữa: 
- Hỡi M'Rua và hỡi các người, lũ làng của M'Rua! Các người đã nghe thấy rằng chính con trai của vua người Vahima đang nói chuyện với các người, vị vua mà đàn bò của Người phủ kín các ngọn núi cạnh hồ Baxxa Narốc dầy đặc như đàn kiến phủ kín xác con hươu cao cổ bị giết chết vậy. Thế nhưng, Cali, con trai của vua người Vahima nói gì đây? Ta xin báo trước cho các người một tin vui to lớn là có cả Mdimu Tốt đến là ng của các người đó! 
Rồi nói gọi to hơn nữa: 
- Đúng thế! Mdimu Tốt! Ô ô ô! 
Qua sự im lặng bao trùm có thể hình dung ra được những lời của Cali đã gây nên ấn tượng to lớn đến thế nào. Hàng ngũ các chiến sĩ xao động như sóng dậy, vì một số người tò mò thì nhích lên thêm vài bước còn những kẻ khác thì lùi lại vì sợ hãi. M'Rua tì cả hai tay lên cán giáo - và im lặng câm đặc bao trùm một hồi lâu. 
Lát sau, tiếng lao xao mới dần lan khắp hàng quân và từng giọng lẻ tẻ lặp đi lặp lại: “Mdimu!”, “Mdimu”, đây đó vang lên tiếng kêu “Yancig, yancig!” vừa biểu thị sự kính trọng, vừa biểu thị sự chào đón. 
Nhưng tiếng nói của Cali lại át hẳn trong tiếng xì xào cùng những tiếng kêu đó: 
- Các người hãy nhìn đi và hãy vui mừng lên! Đó, Mdimu Tốt đang ngồi trên kia, trong cái nhà màu trắng trên lưng voi khổng lồ đó, và voi khổng lồ vâng lời Mdimu, như một tên nô lệ vâng lời ôngchủ, như đứa con vâng lời mẹ vậy! Ô! Đến cha các người cũng như các người chưa từng thấy chuyện thế này bao giờ đâu... 
- Chưa thấy! Yancig! Yancig!... Mắt của tất cả các chiến sĩ đều trông về phía “cái nhà”, tức là cái bành. 
Còn Cali, người mà trong những buổi học tôn giáo trên núi Linđe đã được dạy rằng lòng tin có thể lay chuyển cả núi, đồng thời lại tin chắc rằng, lời cầu nguyện của cô bé da trắng có thể xin được Thượng đế ban cho tất cả mọi điều, nên giờ đây tiếp tục kể về “Mdimu Tốt” hoàn toàn chân thành: 
- Hãy nghe đây, nghe đây! Mdimu Tốt đi trên mình voi về phía mặt trời thức dậy từ sau núi non và những con nước, đến đó Mdimu Tốt sẽ thưa với Linh thần Vĩ đại, để Người gửi về cho chúng ta những đám mây, và trong những hạn hán, những đám mây này sẽ trút mưa xuống cho kê, cho sắn, cho chuối, cho cỏ trong rừng của các người để các người có nhiều thức ăn, để những đàn bò sữa của các người có nhiều cỏ ăn, để rồi chú ng cho các người thứ sữa thật đặc, thật béo! Các người có muốn nhiều cái ăn và nhiều sữa không, ơ lũ là ng? 
- Hê! Muốn chứ, muốn chứ! 
- Rồi Mdimu Tốt sẽ nói với Linh thần Vĩ đại để Người gửi gió đến cho các người, gió sẽ xua đi khỏi làng của các người cái thứ bệnh khiến cho thân thể cho người trở thành lỗ chỗ như lát mật cắt ngang. Các người có muốn gió thổi sạch cái bệnh đó đi không, ơ lũ làng? 
- Hê! Cứ thổi sạch đi! 
- Và theo lời khẩn cầu của Mdimu Tốt, Linh thần Vĩ đại sẽ bảo vệ các người tránh khỏi những cuộc tấn công và cả nh đời nô lệ, và những trận mất mùa... và khỏi sư tử, khỏi báo, khỏi rắn rết, khỏi châu chấu nữa... 
- Xin hãy làm như thế!... 
- Vậy thì hãy nghe tiếp đây và hãy nhìn xem aiđang ngồi trước cái nhà giữa hai tai của voi vĩ đại kia? Ngồi đó là bvana kubva - ngài da trắng - vĩ đại và nhiều sức mạnh khiến voi vẫn phải sợ... 
- Hê! 
- ... Người cầm sấm sét trong tay và dùng sấmsét đó giết chết lũ người ác... 
- Hê! 
- ... Người giết chết sư tử... 
- Hê! 
- ... Người thả những con rắn lửa... 
- Hê! 
- ... Nhưng người sẽ không làm gì hại các người, nếu như các người tôn kính Mdimu Tốt. 
- Yancig! Yancig! 
- Nếu như các người mang đến cho người bột chuối khô, trứng gà, sữa tươi và mật ong. 
- Yancig! Yancig! 
- Vậy thì các ngươi hãy lại gần đây và hãy cúi đầu xuống trước Mdimu Tốt đi! 
M'Rua và các chiến sĩ của ông ta vừa không ngừng kêu “yancig” vừa tiến hơn chục bước lên phía trước, nhưng thật thận trọng vì cái sợ đầy mê tín đối với Mdimu cũng như cái sợ hãi thuần tuý đối với con voi khiến cho những bước chân của họ bị hãm lại. 
Nhìn thấy con Xaba, họ lại hoảng lên lần nữa, vì họ cứ tưởng nó là con vôbô, một loài vật to bằng con báo, lông hoe, sinh sống ở vùng này và vùng phía Nam Abixinia1 mà cư dân trong vùng sợ hơn cả sư tử vì nó thích thịt người hơn mọi thứ khác và rất táo bạo, dám tấn công cả những người đàn ông có vũ trang. Nhưng họ lại yên lòng ngay khi trông thấy thằng bé da đen nhỏ con bụng tròn ung ủng túm cổ dề giữ con vôbô kinh khủng ấy lại. Song chính cái đó còn khiến cho những điều hình dung của họ về quyền lực to lớn của Mdimu Tốt và ông da trắng càng to lớn hơn, và nhìn con voi, nhìn Xaba, họ thì thào với nhau: “Nếu như họ đánh bùa được cả vôbô thì ai trên đời này có thể chống nổi họ?” Tuy nhiên, giây phút long trọng nhất diễn ra, khi Xtas quay lại phía Nen, trước hết là cúi đầu thật thấp, rồi vén bức vách của cái kiệu được dùng làm tấm che, và trước mắt của đám người đang tụ tập hiện ra dung nhan của Mdimu Tốt. M'Rua cùng tất cả các chiến sĩ cúi mặt xuống đất, thân thể của họ nối nhau thành một chiếc cầu sống. 
Không ai dám cử động, sự hãi hù ng trùm lên mọi con tim càng tăng lên hơn nữa khi con King - không hiểu theo lệnh Xtas hay do ý muốn của bản thân - vươn vòi lên trời và rống lên vang động, rồi theo gương nó, con Xaba cũng cất cái giọng trầm hùng nhất của mình lên, cái giọng trầm hùng nhất mà nó có thể phát ra được. 
Khi đó, từ mọi lồng ngực đều bật ra một tiếng giống như lời van xin: “Aka! Aka!” - và tiếng ấy cứ kéo dài mãi cho tới khi Cali lại nói tiếp: 
- Ô, hỡi M'Rua và các người, cháu con của M'Rua! Các ngươi đã kính cẩn chào Mdimu Tốt, vậy các ngươi hãy đứng dậy, hãy nhìn xem và hãy thu vào mắt hình ảnh của Mdimu, vì ai làm điều đó sẽ được Linh thần Vĩ đại ban phước lành. Hãy xua đuổi cái sợ ra khỏi lồng ngực và cái bụng của các ngươi đi, và hãy nhớ rằng, nơi nào Mdimu Tốt tới, thì máu người không thể đổ ra! 
Nghe những lời này, nhất là tuyên bố rằng với Mdimu Tốt thì tử thần không ai bắt được hết, M'Rua bèn nhổm dậy, và theo gương ông, các chiến sĩ khác cũng bắt đầu e dè nhìn vị thần tốt bụng nọ. Hẳn họ sẽ phải thừa nhận một lần nữa - nếu Cali có hỏi lại lần thứ hai - rằng cả cha ông họ lẫn bản thân họ đều chưa trông thấy chuyện lạ như thế bao giờ. Vì mắt họ vốn quen nhìn những tượng thần khắc đẽo bằng gỗ và bằng những vỏ dừa xù xì, thế nhưng giờ đây trước mặt họ, đứng trên lưng voi là một vị linh thần nhỏ bé, trắng trẻo, hiền dịu, ngọt ngào và tươi cười, trông giống như một con chim trắng, vừa như một bông hoa màu trắng. 
Chính vì thế mà nỗi sợ hãi trong lòng họ qua đi, ngực họ thở thoải mái hơn, những đôi môi dầy của họ bắt đầu mỉm cười, và cánh tay họ vô tình chìa về phía cái hiện tượng thần diệu nọ. 
- Ô, hỡi M'Rua! Ông có thật nghĩ rằng, ông lớnda trắng hùng mạnh như thế, người mà voi cũng phải sợ, người có sấm sét trong tay, người giết được cả sư tử, người mà vôbô phải vẫy đuôi vâng lời, người thả đàn rắn lửa và đập vỡ các khối đá to, lại có thể kết anh em máu thịt với loại vua chúa thường thường? Hãy nghĩ xem, ô M'Rua, liệu Linh thần Vĩ đại có trừng phạt ông hay chưa, nếu ông ăn một miếng thịt của Cali, con trai Phumba, thủ lĩnh của người Vahima, và nếu như Cali, con trai Phumba, ăn một miếng thịt của ông? 
- Mày không phải là nô lệ chứ? - M'Rua hỏi. 
- Ông lớn không bắt cóc Cali, cũng không mua Cali mà chỉ cứu Cali thoát chết, cho nên Cali mới đưa Mdimu Tốt và ông lớn đến xứ sở của người Vahima, để người Vahima và vua Phumba chào hỏi và dâng những món cống vật lớn mà thôi. 
- Thế thì cũ ng được, cứ như lời mày nói, để cho M'Rua ăn một miếng thịt của Cali, còn Cali ăn một miếng thịt M'Rua. 
- Hãy cứ thế, cứ thế! - Các chiến sĩ họa theo. 
- Thầy phù thủy đâu rồi? - Vua hỏi. 
- Phù thủy đâu? Phù thủy đâu? Camba đâu rồi? 
- Nhiều giọng kêu lên. 
Chính vào lúc đó bỗng xảy ra một chuyện khiến cho tình thế có thể hoàn toàn thay đổi, làm vẩn đục quan hệ hòa hảo và biến những người da đen thành kẻ thù đối với các vị khách vừa mới tới. 
Từ ngôi nhà cô độc đứng trên sườn đồi, có hàng rào cọc gỗ vây quanh, bỗng nhiên vang lên những tiếng động khủng khiếp. Tiếng đó giống như tiếng rống của sư tử, như tiếng sấm, như tiếng trống, như tiếng cười của linh cẩu, tiếng hú của chó sói và tiếng cọt kẹt kinh người của những bản lề cửa bị hoen gỉ. Nghe thấy tiếng ấy, con King bắt đầu rống lên, con Xaba sủa dữ dội, còn con lừa mà Nasibu đang cưỡi cũng hí lên. Các chiến sĩ nhảy dựng lên như phải bỏng và rút phắt những chiếc giáo đang cắ m mũ i xuống đất lên. 
Náo động cả lên. Những tiếng kêu đầy lo lắng vọng đến tai Xtas: 
“Mdimu của chúng ta! Mdimu của chúng ta rồi!” Lòng kính trọng và thân thiện đối với các vị khách biến mất trong một giây. Mắt của những người hoang dã này bắt đầu ném ra những cái nhìn đầy nghi ngờ và thù hằn. Những tiếng thì thào đầy đe dọa từ đám đông lan ra, còn tiếng ồn ào khủng khiếp trong căn nhà cô độc nọ thì mỗi lúc một mạnh thêm lên. 
Cali kinh hoàng, lần nhanh lại với Xtas, nó nói với giọng đứt đoạn vì xúc động: 
- Ông chủ, đó là gã phù thủy đã đánh thức con ma dữ, Mdimu Ác sợ rằng dân làng sẽ không cốngnạp lễ vật nữa nên đang gầm lên vì giận. Ông chủ hãy dùng những món cống vật thật to để làm yên phù thủy và Mdimu Ác đi, nếu không mọi người sẽ chống lại chúng ta đấy. 
- Làm chúng yên đi à? - Xtas hỏi. 
Và bỗng nhiên em thấy căm giận cho tính tráo trở và tham lam của gã phù thủy, nỗi nguy bất thần khiến em phẫn nộ cả tâm hồn. Nước da rám nắng của em biến đổi hệt như khi bắn chết Ghebơrơ, Khamix và hai tên Bêđuin. Mắt em long lên dữ tợn, môi mím chặt, nắm tay nắm thành nắm đấm, gò má tái nhợt hẳn đi. 
- À, để tớ sẽ làm yên chúng nó cho! - Em thốtlên. Rồi không cần suy nghĩ gì thêm, em thúc voi tiến tới ngôi nhà. 
Không muốn ở lại một mặt giữa những người da đen, Cali cũng đi theo. Lồng ngực các chiến sĩ hoang dã bật lên một tiếng thét - không hiểu là tiếng thét sợ hãi hay giận dữ, nhưng trước khi họ kịp định thần, thì cái hàng rào cọc gỗ đã kêu răng rắc và đổ sụp dưới sức ép của đầu voi, rồi tiếp đó, những bức tường đắp bằng đất sét cùng cái mái nhà bị tung lên trong một đám bụi, và một giây sau, M'Rua cùng lũ người của ông ta trông thấy cái vòi màu đen vung lên không, còn ở đầu vòi là thầy phù thủy Camba. 
Trên sàn nhà, Xtas trông thấy một cái trống lớn, làm bằng một thân cây rỗng lòng và bịt bằng da khỉ, em bèn bảo Cali đưa cho em, rồi quay trở lại, em đứng sừng sững trước mặt những chiến sĩ đang kinh ngạc. 
- Hỡi mọi người, - em nói to, - đó không phải là Mdimu của các người gầm thét đâu, mà chính cá i tên đểu cáng này đã đánh trống để bắt các người phải cống nộp cho nó các thứ lễ vật, thế mà các người lại sợ hãi như những đứa trẻ con. 
Nói rồi, em túm lấy cái dây bện bằng da khô buộc vào trống và lấy hết sức quay xoắn nó thành vòng. Những âm thanh vừa nẫy khiến cho những người da đen sợ hãi giờ đây lại vang lên, thậm chí còn nhiều phần hãi hùng hơn nữa, vì không còn bị các bức tường của căn nhà chắn bớt. 
- Ô, M'Rua và cháu con của ông ta mới ngu ngốc làm sao! - Cali kêu lên. 
Xtas đưa trống cho nó, Cali bèn dùng trố ng làm ồn đến nỗi suốt một lúc lâu không thể nghe thấy tiếng ai nói cả. Cuối cùng, khi đã chán rồi, nó ném cái trống xuống chân M'Rua. 
- Đó, cái ma Mdimu của các người đó, - nó cả cười gọi to. 
Rồi với sự lắm lời thường có của người da đen, nó nói với các chiến sĩ, trong đó nó không tiếc lời chế giễu cả họ lẫn ông M'Rua. 
Vừa chỉ vào gã Camba nó vừa nói rằng cái “tên ăn cắp đội mũ da chuột” này, suốt nhiều mùa mưa và mùa khô đã lừa bịp họ, còn họ thì nuôi béo hắn bằng đậu, bằng dê tơ và mật ong. Liệu trên thế giới này có thể có vị vua chúa nào, có thể có dân tộc nào ngu dốt hơn chăng? Họ tin vào phép thuật của cái tên già chuyên lừa đảo, vào sức mạnh củ a y, vậy giờ xin họ hãy nhìn xem vị phù thủy vĩ đại nọ đang treo lơ lửng trên vòi voi và kêu lên: “Aka!” để xin ông lớn da trắng hãy thương tình. Sức mạnh của hắn đâu rồi? Pháp thuật của hắn đâu rồi? Tại sao chẳng có cái Mdimu hung ác nào gầm lên để bảo vệ hắn lúc này? A! Mdimu của hắn là cái thá gì? 
Một miếng da khỉ và một mẩu thân cây gỗ rỗng lòng đã bị convoi giẫm nát. Ở vùng người Vahima thì ngay cả đàn bà và trẻ con cũng không thèm chơi bằng cái Mdimu như thế, ấy vậy mà M'Rua cùng những người của ông lại sợ hãi nó! Chỉ có một Mdimu chân chính duy nhất, chỉ có một ông chủ chân chính duy nhất đầy hùng mạnh mà thôi - họ hãy mau mau thần phục, chào đón và mang thật nhiều lễ vật tới dâng đi, nếu không những tai họa sẽ đổ xuống đầu họ, những tai họa mà cho tới nay tai họ chưa từng được nghe nói tới bao giờ. 
Thật ra, đối với người da đen, không cần phải có thêm những lời đó vì chỉ cần việc tên phù thủy cùng Mdimu của y trở nên yếu ớt vô cùng so với vị thần da trắng mới cùng ông chủ da trắng đã hoàn toàn đủ để cho họ từ bỏ hắn và khinh miệt hắn rồi. Họ lại bắt đầu hô “Yancig! Yancig”!" một lần nữa, còn thành kính và nhiệt thành hơn trước. Song họ tức mình vì bao nhiêu năm đã để cho gã Camba lừa gạt, nên họ nhất thiết muốn giết chết lão ta. Chính ông M'Rua đã xin với Xtas cho phép trói hắn lại và giam giữ cho tới khi nào nghĩ ra được một cái chết thật tàn khốc xứng với tội của hắn. 
Nhưng Nen quyết định sẽ tha cho hắn được sống, và chính Cali đã tuyên bố rằng nơi nào Mdimu Tốt đặt chân tới, nơi đó máu người không thể nào bị chảy ra, nên Xtas cho phép họ đuổi cổ tên phù thủy bất hạnh nọ ra khỏi làng.
Vốn tưởng rằng mình sẽ bị chết đau đớn, nên giờ đây Camba quỳ phủ phục trước mặt Mdimu Tốt vừa nức nở vừa cảm ơn cứu mạng. Và kể từ lúc đó trở đi, không còn có chuyện gì khuấy động buổi lễ nữa. Từ sau hàng rào cọc gỗ, phụ nữ và trẻ con đổ ra, vì cái tin nhữ ng vị khách quý phi thường đến đây đã lan rộng ra khắp làng, và ý muốn được nhìn thấy Mdimu Tốt đã thắng sự sợ hãi. 
Lần đầu tiên Xtas và Nen được trông thấy cái làng của những người hoàn toànhoang dã, những người mà ngay cả dân Ả Rập cũng chưa mò được tới nơi. Quần áo của những người da đen này làm bằng vỏ cây thạch thảo hoặc bằng da thú quấn chung quanh đùi. Tất cả mọi người đều xăm chàm. Cả đàn ông lẫn đàn bà đều đục thủng dái tai và xâu vào đó những mẩu gỗ hoặc những khúc xương lớn khiến cho dái tai chảy dài xuống gần chạmvai. Ở môi dưới họ đeo cái pêlêlê, đó là một cái vòng bằng gỗ hay bằng xương, to như cái đĩa lót cốc. Những chiến sĩ danh tiếng hơn cùng vợ của họ mang trên cổ những chiếc vòng bằng dây đồng hay sắt, xếp chồng lên nhau cao và cứng đến nỗi họ khó khăn lắm mới cử động được cái đầu. 
Rõ ràng họ thuộc về bộ lạc Sinlúc, bộ lạc này cònsinh sống chạy dài mãi sang phía Đông, vì Cali và Mêa hiểu rất rõ thổ ngữ của họ, còn Xtas thì hiểu được một nửa. Tuy nhiên, họ không có được những đôi chân dài như những người anh em sinh sống ở vùng ngập nước sông Nin, vai họ rộng hơn, ít cao hơn và nói chung trông họ ít giống những loài chim chuyên môn mò lặn dưới nước hơn. Bọn trẻ con trông lanh lẹn như những con bọ nhảy, và do chưa phải mang pêlêlê, nên so với ngườ i lớn chúng xinh đẹp hơn hẳn. 
Sau khi đứng đằng xa nhìn ngó Mdimu Tốt, những người phụ nữ bắt đầu đua nhau với các chiến sĩ trong việc mang tặng vật tới, tặng vật là những con dê tơ, gà mái, trứng, đậu đen và bia nấu từ kê. Việc đó kéo dài mãi cho tới khi Xtas phải ngăn dòng thác những thức ăn ấ y lại, và vì rằng nó trả đổi rất hào phóng bằng những chuỗi hạt và lụa màu, còn Nen thì phân phát cho bọn trẻ con mươi cái gương con được thừa hưởng của ông Linđe, nên niềm vui vô hạn ngự trị cả làng, và chung quanh túp lều nơi bọn trẻ nghỉ ngơi vẫn liên tục vang lên nhữ ng tiếng kêu vui vẻ đầy ngưỡng mộ. Các chiến sĩ bắt đầu múa vũ điệu chinh chiến để chào đón những vị khách quý, họ đánh trận giả và cuối cùng là việc tiến hành lễ uống máu ăn thề kết nghĩa anh em giữa Cali và ông M'Rua. 
Vì thiếu phù thủy Camba, người nhất thiết phải có mặt cho buổi lễ này, nên một cụ già da đen biết đầy đủ các phù chú đã thay hắn. Sau khi giết một con dê và lấy lá gan của nó ra, ông lão chia gan ra thành nhiều miếng to tướng, rồi bắt đầu múa may chân tay như một con cù, lúc thì nhìn Cali, lúc thì nhìn M'Rua, và cất giọng trang nghiêm hỏi: 
- Hỡi Cali, con trai của Phumba, mày có muốn ăn một miếng của M'Rua, con trai của M'Culi không, và hỡi M'Rua, con trai của M'Culi, mày có muốn ăn một miếng của Cali, con trai Phumba hay chăng? 
- Chúng tôi muốn, - hai người anh em tương lai cùng đáp. 
- Các người có muốn rằng trái tim của Cali sẽ là trái tim của M'Rua, còn trái tim của M'Rua là trái tim Cali hay chăng? 
- Chúng tôi muốn! 
- Và cả tay, cả ngọn giáo, cả lũ bò sữa? 
- Cả lũ bò sữa! 
- Và tất cả mọi thứ mà mỗi đứa đang có hay sẽ có? 
- Những thứ đang có và sẽ có! 
- Và để cho giữa các ngươi không hề có dối lừa và phản bội, không có thù hằn? 
- Không có thù hằn! 
- Để cho người này không bao giờ ăn cắp của người kia? 
- Không bao giờ! 
- Để cho các ngươi là anh em với nhau? 
- Phải! 
Ông lão quay mỗi lúc một nhanh hơn. Các chiến sĩ vây chung quanh mỗi lúc một thêm chăm chú dõi theo những cử chỉ của ông. 
- Ao! - Ông lão da đen kêu lên. - Nếu như một trong hai người nói dối người kia, phản bội người kia, ăn cắp của người kia, đầu độc người kia, giết chết người kia, hắn sẽ bị nguyền rủa. 
- Xin cho hắn sẽ bị nguyền rủa! - Tất cả cácchiến sĩ đồng thanh đáp lại. 
- Còn nếu như hắn là thằng nói dối và âm mưu phản bội, thì xin cho hắn không nuốt nổi máu người anh em của hắn và xin cho hắn phải nôn ra ngay trước mắt chúng tôi. 
- Ô, ngay trước mắt chúng tôi! 
- Xin cho hắn phải chết. 
- Phải chết! 
- Xin vôbô xé xác hắn ra. 
- Vôbô! 
- Hoặc sư tử. 
- Hoặc sư tử! 
- Xin voi và tê giác cùng với trâu rừng hãy xéo nát hắn. 
- Ô! Và trâu rừng! - Dàn đồng ca nhắc lại. 
- Xin rắn hãy cắn chết hắn. 
- Rắn! 
- Xin cái lưỡi hắn trở nên đen kịt. 
- Đen kịt! 
- Và mắt hắn chạy ra sau gáy. 
- Ra sau gáy! 
- Xin cho hắn đi hai chân chổng ngược. 
- Ha! Hai chân chổ ng ngược! 
Không chỉ riêng Xtas mà cả Cali cũng phải cắn môi để khỏi bật cười, trong khi đó những lời nguyền cứ lặp lại, mỗi lúc một kinh khủng hơn, con cù quay nhanh đến nỗi mắt người không thể dõi theo kịp vòng quay của ông. Cứ thế kéo dài mãi cho tới khi ông già người da đen hoàn toàn kiệt sức... 
Kể từ giây phút này quả thực không còn gì đe dọa những người bộ hành trẻ tuổi từ phía những cư dân hoang dã này nữa, kể từ hành động nhỏ nhặt cho tới mọi sự tấn công bất thần, ngược lại chúng được vây bọc trong tình mến khách và lòng thành kính gần như đối với vị thần. Lòng thành kính này còn tăng lên hơn nữa, khi Xtas dựa theo cái khí áp kế to tướng của ông Linđe báo trước trời mưa, và ngay trong ngày hôm đó mưa rơi khá tràn trề, như trong mùa masica vậy, mặc dù mùa mưa đã qua đi khá lâu rồi, dường như ông trời muốn trút hết những lượng nước dự trữ của mình xuống đất. Những người da đen tin rằng chính Mdimu Tốt đã ban thưởng cho họ trận mưa đó, và lòng biết ơn của họ đối với Nen thật vô bờ bến. Xtas nói đùa với cô bé rằng, vì cô bé đã là thần của người da đen nên sẽ chỉ có một mình em tiếp tục lên đường thôi, còn cô bé sẽ ở lại làng của ông M'Rua, nơi những người da đen sẽ xây dựng cho cô bé một cái giáo đường bằng ngà voi và sẽ mang đậu nành và chuối tới nuôi cô. 
Nhưng Nen tưởng thật, bèn đứng nhón trên đầu ngón chân và thì thầm vào tai cậu bé theo thói quen của mình chỉ mấy chữ thôi: “Anh không để em lại đâu!” - rồi cô bé nhảy cẫng lên vì vui sướng, nói rằng: nếu người da đen tốt bụng đến thế thì cả chuyến đi tới đại dương sẽ qua đi rất nhanh chóng và dễ dàng. Chuyện đó diễn ra trước mặt đám đông, nên trông thấy Mdimu nhảy nhót, ông lão M'Rua cũng bắt đầu nhảy cẫng lên theo, cố gắng nhảy cao đến mức có thể được trên hai cái chân vòng kiềng củ a ông, vì ông tưởng rằng bằng cách đó ông có thể biểu lộ lòng thành kính của mình. Các vị đại thần, sau đó là các chiến sĩ, rồi phụ nữ và trẻ con - nói tóm lại là cả làng - cũng theo gương ông mà nhảy nhót một hồi dường như tất cả đều mất trí vậy. 
Xtas buồn cười vì cái trò nhảy nhót theo gương vị thần nhỏ nọ đến nỗi cười bò ra. Tuy nhiên, đến đêm, chính em đã hiến cho nhà vua sùng tín nọ cũng như các thần dân của ông một công lao thật sự và lâu bền, vì khi đàn voi kéo vào đồng chuối, em bèn cưỡi con King đến đó và bắn lên mấy phát pháo hiệu. Sự kinh hoàng mà “những con rắn lửa” này gây ra vượt quá sự chờ đợi của nó. 
Nhữ ng con vật khổng lồ điên lên hoảng sợ khiến cho cả khu rừng vang ầm tiếng rống và tiếng bước chân chạy trốn thục mạng của chúng, húc vào nhau, gạt đổ lẫn nhau. Con King hùng mạnh đuổi theo những người bạn đang chạy trốn với sự hăng hái vô cùng, nó không tiếc sức dùng vòi và ngà xua đuổi bọn bạn. Sau một đêm như thế, có thể tin chắc rằng, suốt một thời gian dài nữa sẽ không một chú voi nào còn dám bén mảng đến đồng chuố i và cọ đum thuộc làng của ông già M'Rua nữa. 
Dân làng vô cùng vui sướng, và những người da đen nhả y múa, uống bia làm bằng kê và rượu dừa suốt cả đêm. Cali tìm hiểu qua họ nhiều tin tức quan trọng, vì hóa ra có một số người đã từng nghenói tới con nước lớn nào đó nằm về phía Đông, có núi bao quanh. Đối với Xtas, điều đó có nghĩa là cái hồ mà người ta không dạy cho em trong những bài học địa lí quả thực có tồn tại, và thứ hai, nếu cứ đi theo hướng đã chọn thì thể nào cũng tới được chỗ ở của người Vahima. Xuất phát từ nhận xét rằng tiếng nói của Cali và Mêa không khác gì mấy so với tiếng nói ông M'Rua, em đi tới kết luận rằng, tên gọi “Vahima” rất có thể chỉ là một cái tên gọi địa phương, và rằng những dân tộc sinh sống trên hai bờ hồ Baxxa Narốc thuộc về bộ lạc lớn Synluc, bộ lạc này cư trú bắt đầu từ sông Nin kéo dài mãi vềphía Đông, không biết tới tận đâu(2). 
-------. 
1 Theo E. Reclus-Lefcore: Thám hiểm Abixinia (Chú thích của tác giả). 
2 Vào thời Mahơđi, vùng này chưa được nghiên cứu (Chú thích của tác giả).



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 39

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Toàn bộ dân làng đưa tiễn khá xa Mdimu Tốt và rơi lệ từ biệt cô, cố nài nỉ cô lúc nào đó ghé thăm M'Rua và hãy nhớ tới lũ làng của ông. Xtas ngần ngừ một lúc, không hiểu có nên chỉ cho những người da đen cái khe núi, nơi chôn giấu những thứ hàng hóa và thức ăn dự trữ được thừa hưởng của ông Linđe hay không - những thứ mà vì thiếu người mang vác nên em đành phải bỏ lại. Nhưng nghĩ rằng việc sở hữu những kho báu như thế có thể làm bùng lên trong họ lòng hằn học và ganh ghét nhau, đánh thức sự tham lam và làm vẩn đụ c cuộc sống vốn đang thanh bình của họ nên em bỏ ý định ấy. Ngược lại, em bắn hạ một con trâu to và để thịt của nó lại cho họ làm bữa tiệc tiễn chân. Nhìn thấy một lượng thịt lớn như thế, họ rất vui sướng. 
Trong ba ngày tiếp đó, cả đoàn lại đi qua vùng hoang mạc. 
Ban ngày thì nóng nực, nhưng ban đêm lại lạnh - vì vùng này nằm ở độ cao lớn, đến nỗi Xtas phải bảo Mêa bọc Nen trong hai lần chăn. Giờ đây bọn trẻ thường phải vượt qua những khe núi, có khi chỉ là những khe núi trơ trụi đầy sỏi đá, nhưng đôi khi lại là những khe đầy cây cối, phải cố gắng lắm mới vượt qua nổi. Trên bờ những khe núi ấy, bọn trẻ thường nhìn thấy những con khỉ lớn, nhiều khi cả sư tử và báo, bọn này làm tổ trong các hang đá. Xtas bắn hạ một con báo theo yêu cầu của Cali, sau đó cậu bé da đen khoác ngay tấm da của nó vào người để dân da đen có thể biết ngay rằng họ đang được tiếp xúc với một người dòng dõi hoàng tộc. 
Sau những khe núi đó, trên một bình nguyên nằm ở độ cao lớn, lại bắt đầu xuất hiện những cái làng của người da đen. Một số làng nằm cạnh nhau, một số cách nhau tới một hai ngày đường. 
Tất cả các làng đều có hàng rào cọc gỗ bao bọc để chống lại sư tử, những hàng rào này được phủ đầy dây leo, đến nỗi nhìn xa trông chúng như cứ như một cụm rừng nguyên thủy vậy. Chỉ đến khi trông thấy khói bốc lên từ bên trong mới có thể biết được rằngtrong đó có người sinh sống. Ở mọi nơi, đoàn người được đón tiếp gần giống như ở làng của ông M'Rua, nghĩa là thoạt tiên có nhiều phần lo sợ và nghi ngờ, sau đó kinh ngạc và tôn kính. Chỉ có một lần xảy ra chuyện: khi vừa trông thấy con voi, con Xaba, ngựa và những người da trắng, cả làng bỏ chạy vào khu rừng cạnh đó, đến nỗi không còn ai để nói chuyện nữa. Tuy vậy không một ngọn giáo nào được sử dụng để chống lại đoàn. Vì người da đen trước khi đạo Hồi truyền cho họ lòng căm thù những người không theo đạo và sự tàn bạo, vốn là những người hiền lành và nhút nhát. Cho nên thường thường là Cali “ăn một miếng” của vị vua bản địa, vua bản địa “ăn một miếng” của Cali, rồi sau đó quan hệ hai bên vô cùng thân thiện. Khắp nơi người ta đều bày tỏ lòng thành kính và thần phục đối với Mdimu Tốt dưới dạng gà mái, trứng và mật ong thu được từ những cái kéo gỗ treo bằng nhữngsợi dây dừa trên những cành cây lớn. “Ông lớn”, chủ nhân của con voi, của sấm sét và của những con rắn lửa, thường gây nên sự sợ hãi, tuy nhiên sự sợ hãi đó nhanh chóng biế n thành lòng biết ơn, khi người ta hiểu được rằng tính hào phóng của Xtas sánh ngang với sức mạnh của em. Nơi có các làng ở gần nhau thì sự tới thăm của các vị khách khác thường này được người ta báo trước cho nhau bằng trống, vì người da đen biết cách truyền đạt tất cả mọi điều bằng cách gõ trống. Cũng có trường hợp toàn thể cư dân ra đón tiếp bọn trẻ và ngay từ đầu đã đối xử với chúng hết sức thân thiện. 
Trong một làng có chừng nghìn đầu dân, vị thủ lĩnh của làng - vừa là vua vừa là phù thủy - đồng ý chỉ cho bọn trẻ xem “đại linh vật” - vật thờ cúng được giữ gìn, được tôn kính và sợ sệt vô cùng, đến nỗi dân chúng không dám tới gần cái khám thờ bằng gỗ mun, phủ da tê giác, mà chỉ dám đến dâng lễ vật ở cách đó khoảng năm mươi bước chân. Vua kể rằng vật thiêng này rơi xuống từ mặt trăng cách đây không lâu, nó có màu trắng và không có đuôi. Xtas tuyên bố rằng chính em, theo lệnh Mdimu Tốt đã phóng vật ấy lên trời. Nói như thế, em hoàn toàn không sai sự thật chút nào, vì hóa ra cái “linh vật” nọ chỉ là một trong những cái diều mà bọn trẻ đã thả từ núi Linđe. Xtas và Nen vui sướng nghĩ rằng, nếu gió thuận, những chiếc diều khác có thể còn bay xa hơn, và chúng quyết định tiếp tục thả diều từ trên cao nguyên này. Ngay buổi chiều hôm ấy, Xtas đã làm ngay một cái và thả lên trời, điều đó khiến cho dân da đen tin rằng Mdimu lẫn ông lớn da trắng là những vị thần từ mặt trăng xuống, và không thể chỉ kính trọng những vị thần ấy thôi là đủ. 
Tuy nhiên, điều khiến Xtas vui sướng hơn những biểu hiện của sự tuân phục và thành kính ấy là tin tức cho biết hồ Baxxa Narốc chỉ ở cách đây chừng mười ngày đường. Những cư dân của cái làng mà hiện nay bọn trẻ đang dừng chân nói rằng, thỉnh thoảng họ còn đổi rượu vang làm bằng cây cọ đum để lấy muối do những người từ phía đó mang lại. Vua bản xứ cũng nghe nói tới vua Phumba, đó làthủ lĩnh của một dân tộc tên gọi là “Đôcô”, và Cali thừa nhận rằng những người láng giềng xa hơn nữa thường gọi người Vahima và người Namburu bằng tên gọi ấy. Tin tức ít đáng mừng hơn là tin cho biết trên bờ con nước lớn ấy đang có chiến tranh, và để tới được Baxxa Narốc, phải vượt qua những ngọn núi rất hoang vu, những khe núi rất dốc đầy dã thú. Song đối với các loài dã thú thì Xtas đâu có lo ngại gì, còn nói về núi hoang vu thì em còn thích hơn là những vùng đồng bằng trũng, vì nơi đó con ma sốt rét, thường xuyên rình rập nhữ ng nhà bộ hành trẻ tuổi này. 
Thế là bọn trẻ vui vẻ tiếp tục lên đường. Sau cái làng đông đúc cư dân ấy, chúng chỉ còn gặp có một điểm dân cư nữa, nhưng rất nhỏ bé, giống như một cái tổ chim cheo leo trên bờ vực. Sau đó bắt đầu vùng đồi chân núi, thỉnh thoảng bị những cái khesâu cắt ngang. Về phía Đông nhô lên một dãy đỉnhnúi mờ mờ, trông từ xa như có màu đen thẫm. Đó là vùng đất lạ chưa một ai biết đến. 
Trong khi hướng tới đó, bọn trẻ không thể lường được trước những gì chúng có thể gặp phải ở đó, trước khi tới được lãnh thổ của vua Phumba. Không thiếu cây cối trên những trảng trống mà chúng đi qua, nhưng trừ những cây bồng bồng và xiêm gai mọc đơn độc, tất cả các loài cây khác đều mọc thành khóm, tạo nên những lùm cây dầy đặc. Những người bộ hành thường dừng chân trong những lùm cây ấy để ăn uống nghỉ ngơi và lấy bóng mát của chúng. 
Trong những lùm cây có vô số loài chim chóc. Rất nhiều loại bồ câu rừng, những con chim rõ to mà Xtas gọi là chim tucan, sả rừng, sáo sậu, chim cu đất và hằng hà sa số những con chim bengalix ríu ra ríu rít trong vòm lá, bay từ khóm cây này sang khóm cây khác, từng con một hoặc cả đàn, biến hóa như những chiếc cầu vồng. Nhìn từ xa, một số cây như đầy những bông hoa màu hồng vậy. Nen đặc biệt thích những con chim bắt ruồi thiên đường và những con chim màu đen to lớn, có điểm trên bộ lông những vệt màu hồng có tiếng hót nghe như tiếng sáo mục đồng. 
Những con chim trảu tuyệt đẹp, trên lưng màu hồng, dưới bụng màu thanh thiên nhạt, quay lộn trong ánh sáng mặt trời, tóm gọn những con ong đang bay cùng những con châu chấu. Trên ngọn cây léo nhéo tiếng những chú vẹt xanh, đôi khi điểm thêm những tiếng kêu trong trẻo như chuông bạc, tiếng của những con chim nhỏ màu xanh xám, ẩn kín dưới lá cây ađauxôni đang chào hỏi nhau. 
Trước bình minh và sau khi mặt trời lặn có hàng đàn chim sẻ của vùng này bay ngang qua, đông đến nỗi, giá như không có tiếng kêu và tiếng đập cánh của chúng thì có thể tưởng đó là những đám mây. Xtas đoán rằng chính những con chim mỏ trắng này kêu lên những tiếng như chuông bạc ấy, khi chúng đàn ra trong các lùm cây về ban ngày. 
Nhưng bọn trẻ ngạc nhiên nhất khi trông thấy những con chim khác bay thành từng đoàn nhỏ, và hót hay như một dàn nhạc thực sự. Mỗi đàn gồm năm sáu con mái và một con trống có lông óng ánh như kim loại. Chúng thườ ng đậu trên những cây xiêm gai đơn độc, con trống đậu trên ngọn cây, những con mái đậu phía dưới - và sau những thanh âm đầu tiên dường như phát ra để lên dây lại cổ họng, con trống bắt đầu hót, còn những con mái im lặng lắng nghe. Khi con trống dứt tiếng hót, lũ chim mái liền họa theo câu cuối cùng trong khúc hót của con trống. Sau khi dừng nghỉ một lúc ngắn, con trống lại tiếp tục, rồi lại kết thúc để lũ chim mái hòa theo, cả đàn bay đi theo một đường bay lượn sóng sang cây xiêm gai khác gần đấy, và dàn nhạc gồm một lĩnh xướng và dàn đồng ca lại lặp lại trong sự tĩnh mịch ban chiều. Bọn trẻ nghe mãi không biết chán. Nen nhớ lại giai điệu của dàn nhạc ấy, và cùng với dàn đồng ca của những con chim mái, cô bé cất giọng thanh thanh của mình hát lên những thanh âm cuối cùng nghe như những tiếng lặp đi lặp lại rất nhanh: “Tui, tui, tui, tui, tuiling, ting, ting!” Một lần, mải lần theo những nhạ c sĩ có cánh, bọn trẻ đi từ cây nọ sang cây kia và bỏ cách xa trại tới khoảng một cây số, để lại trại ba đứa bé da đen, con King và con Xaba, bởi vì Xtas không muốn dắt theo con chó để nó khỏi sủa làm lũ súc vật hoảng sợ, dọc đường em muốn đi săn luôn thể. Khi đàn chim rời cây xiêm gai mọc sau chót để bay sang bờ bên kia một khe núi rộng, cậu bé dừng lại và bảo: 
- Bây giờ anh đưa em về chỗ con King, rồi anhđi xem thử xem trong khoảng rừng trên cao kia có linh dương hay ngựa vằn không, Cali nói là thịt khô không còn đủ cho hai ngày nữa đâu. 
- Em lớn rồi mà, - Nen đáp, cô bé lúc nào cũng muốn chứng tỏ rằng mình không còn là một đứa trẻ nữa. - Em quay về một mình cũng được. Từ đây trông thấy trại rõ thế kia, cả khói nữa kìa. 
- Anh sợ em đi lạc mất thôi. 
- Lạc sao được! Ở trong rừng rậm thì có thể em lạcđấy, nhưng ở đây, anh xem, cỏ thấp thế này kia mà! 
- Thế nhỡ con gì vồ em thì sao? 
- Chính anh bảo ban ngày sư tử và báo không săn mồi đấy thôi. Thêm nữa, con King đang rống lên vì nhớ chúng mình đấy, anh có nghe thấy không? Sư tử làm sao lại dám săn mồi ở chỗ có tiếng con King được. 
Và cô bé bắt đầu khăng khăng giữ ý mình. 
- Anh Xtas, em đi một mình như người lớn cho coi! 
Xtas ngần ngừ một lát, nhưng rồi em cũ ng đồng ý. Quả thực, có thể trông rõ cái trại và làn khói đang bốc lên. Con King nhớ Nen, chốc chốc lại rốnglên. Đi trong cỏ thấp thì không thể lạc đường được, còn sư tử, báo và linh cẩu thì chẳng phải nói tới làm gì, vì những loài thú này chỉ săn mồi ban đêm mà thôi. Cậu bé cũng biết rằng không gì làm cô bé vui sướng hơn là việc chứng tỏ cô không còn bé nữa. 
- Thôi được rồi, - cậu bảo, - em đi một mình cũngđược, nhưng phải đi thẳng một mạch về, đừng tha thẩn dọc đường đấy nhé! 
- Thế em hái hoa có được không? - Cô bé vừa hỏivừa chỉ vào những cây hoa khổ tô phủ vô số những đóa hoa màu hồng. 
- Được. 
Nói rồi, cậu bé quay người Nen lại, chỉ cho cô thấy một lần nữa cho yên dạ cái lùm cây nơi khói trại đang bốc lên, nơi phát ra tiếng rống của con King, rồi em lẩn vào trong những lùm cây cỏ cao mọc kín bờ khe. 
Nhưng chưa bước được một trăm bước, em đã cảm thấy lo lắng, “Mình thật là ngu ngốc, - em nghĩ, - đã để cho Nen đi một mình trên đất Phi châu này. Ngu, ngu! Nó còn bé thế kia! Mình không được rời nó một bước, trừ khi nào có con King. Ai biết được sẽ gặp chuyện gì? Ai biết được dưới gốc cây hoa màu hồng ấy lại không có một con rắn, một con vượn nào đó có thể từ dưới khe nhô lên tóm lấy nó hay cắn nó thì sao? Lạy Chúa! Mình đã làm một việc quá ngốc!”. 
Sự lo lắng biến thành nỗi tự giận mình, trở thành mộ t nỗi sợ hãi thắt ruột. Không nghĩ ngợi gì thêm, em quay ngoắt lại, dường như có một điềm gở báo trước vậy. Em đi vội vã với sự thành thạo đã có được do những chuyến đi săn bắn hàng ngày, súng sẵn sàng nhả đạn, em đi giữa nhữ ng bụi gai trinh nữ không một tiếng động, cứ như một con beo ban đêm đang lần mò tới chỗ đàn linh dương vậy. Một lát sau, em nhô đầu ra khỏi những đám cỏ cao, nhìn - và sững người lại. 
Nen đang đứng gần bụi cây khổ tô, hai tay đưa ra phía trước mặt, những đóa hoa màu hồng mà cô bé để rơi xuống trong cơn kinh hoàng đang nằm ngổn ngang dưới chân, còn cách đấy chừng hơn hai mươi bước chân, một con thú to màu vàng xám đang trườn lại phía cô bé trong đám cỏ thấp. 
Xtas trông rõ cặp mắt xanh lét của con thú đang nhìn chòng chọc vào bộ mặt trắng như phấn của cô bé, cái đầu nhỏ với đôi tai mỏng dính, những cái xương bả vai của nó nhô cao lên do đang ở tư thế bò trườn rình mồi, cái thân mình dài và cá i đuôi còn dài ngoẵng hơn nữa, chót đuôi đang ve vẩy nhẹ nhàng như mèo. Một giây nữa thôi - chỉ một cái nhảy và thế là Nen hết đời. 
Nhìn thấ y cảnh ấy, trong chớp mắt cậu bé đã được tôi luyện và quen với hiểm nguy hiểu ngay rằng nếu như em không bình tĩnh ngay lập tức, nếu như em không tỉnh táo, nếu như em bắn không thật trúng đích mà chỉ làm cho con vật bị thương - dù có bị thương nặng đi nữa - thì cô bé sẽ chết. Song em đã quen với việc chế ngự bản thân mình đến độ, với những ý nghĩ đó, tay chân em bỗng trở nên bình tĩnh dẻo dai như chiếc lò xo bằng thép. Chỉ một thoáng nhìn, em đã trông thấy một cái đốm sẫm màu ở gần mang tai con vật - và bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, em chĩa ngay nòng súng vào đó và nổ liền. 
Tiếng súng nổ, tiếng kêu thét lên của Nen và một tiếng gào khàn khàn cụt lủn của con vật bật lên gần như đồng thời. Xtas nhảy vọt tới chỗ Nen, lấy mình che cho em, và chĩa ngay súng vào con thú một lần nữa. 
Nhưng phát đạn thứ hai không cần thiết nữa, vì con mèo rừng kinh khủng đã nằm bẹp dí dưới đất như một miếng giẻ rách, mũi nó chạm đất, móng cấu chặt vào cỏ, không động đậy. Viên đạn ria đã phá nát toàn bộ cái gáy và xương sống gáy nó. Những vòng óc màu trắng đẫm máu dập nát chườm ra trên mắt nó. 
Cậu bé thợ săn và Nen đứng thừ người nhìn con thú bị giết, nhìn nhau một hồi lâu không nói được lên lời. Rồi sau đó diễn ra một chuyện thật lạ lùng. Chính Xtas, vừa mới đây dường như vẫn còn ngạc nhiên về sự tĩnh trí và bình tĩnh như những người thợ săn già u kinh nghiệm nhất trên thế giới, giờ đây bỗng nhiên lại tái nhợt người đi, chân run lẩy bẩy, mắt ứa lệ, rồi hai tay ôm chặt lấy đầu lắp đi lắp lại mãi: 
- Ôi, Nen! Nen! Giá mà anh không quay lại!... 
Và bị chế ngự bởi nỗi kinh hoàng, bởi cơn tuyệt vọng muộn màng, đến nỗ i mỗi đường gân thớ thịt trong người em như đều run lên hệt như em bị sốt rét vậy. Sau một giây căng thẳng thần kinh và thể xác đến tột độ là giây phút yếu mềm và dịu nguội. Mắt em như thấy cảnh con thú dữ đang nằm nghỉ với cái mõm đẫm máu trong một cái hang tối tămnào đó, cùng cái thi thể nát nhừ của Nen. Điều đó có thể diễn ra như thế và chắc chắn sẽ phải xảy ra như thế, nếu như em không kịp quay trở lại. Chỉ một phút nữa thôi, chỉ một giây nữa thôi, - là đã quá muộn. Em không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ ấy. 
Và mọi chuyện kết thúc bằng cách Nen lại ai ủi Xtas sau khi cô bé đã bớt sợ. Cái sinh linh nhỏ bé và tốt bụng này quàng hai tay lên cổ Xtas, và vừakhóc vừa gọi em thật to, dường như muốn đánhthứ c em dậy: 
- Anh Xtas, anh Xtas ơi! Em có làm sao đâu! Anh nhìn này, em không bị làm sao cả! Anh Xtas! Anh Xtas ơi! 
Nhưng phải một lúc lâu Xtas mới định thần và bình tĩnh lại được. Ngay sau đó Cali đến, cậu bénghe thấy tiếng súng ở gần trại và biết rằng không bao giờ bvana kubva bắn súng để chơi, nên nó dẫn theo con ngựa để chở thú săn được. Nhìn thấy con vật bị bắn chết, cậu bé da đen bỗng giật lùi, mặtnó xám ngóe đi ngay lập tức. 
- Vôbô! - Nó thét lên. 
Mãi đến giờ, bọn trẻ mới bước lại gần cái xác đã cứng lại. Cho đến lúc này Xtas vẫn chưa biết loài thú gì đã bị em bắn hạ. Mới nhìn qua cậu bé ngỡ rằng đó là một con mèo rừng xứ Cáp loại lớn1, nhưng nhìn kĩ hơn em nhận ra rằng không phải như thế, vì con thú bị giết còn lớ n hơn cả báo. Lớpda màu xám hoe vàng của nó điểm những chấm lốm đốm màu hạt dẻ, nhưng đầu nó lại nhỏ hơn đầu báo, vì thế trông nó hơi giống chó sói, chân cũng cao hơn, bàn chân rộng hơn, mắt to tướng. Một con mắt đã bị đạn bắn cho lồi hẳn ra ngoài, con mắt còn lại vẫn đang nhìn bọn trẻ, một con mắt không đáy, bất động và khủng khiếp. Xtas đi đến kết luậnrằng đấy hẳn là một loài báo mà khoa động vật học chưa hề biết đến, cũng giống như hồ Baxxa Narốc mà khoa học địa lí chưa biết đến vậy. 
Cali vẫn đang vô cùng kinh hoảng nhìn con vậtnằm thẳng đuỗn, lắp bắp bằng giọng khe khẽ, dường như nó sợ làm con vật thứ c dậy: 
- Vôbô!... Ông lớn bắn chết cả vôbô! 
Xtas quay lại đặt tay lên mái đầu cô bé, dường như muốn xem lại cho chắ c chắn rằng con vôbô không vồ được em, rồi nó nói: 
- Nen, em thấy chưa, dù cho em có lớn hoàn toànrồi đi nữa, em cũng không được phép đi một mình trong rừng! 
- Đúng thế, anh Xtas ạ, - Nen đáp với vẻ nhún nhường. - Nhưng với anh hay với King thì em có thể đi được chứ, phải không anh? 
- Em kể xem nào. Em có nghe thấy tiếng nó mòlại gần không? 
- Không... mãi đến khi có một con ruồi vàng thậtto từ trong hoa bay ra, em quay lại nhìn theo mới thấy nó đang từ trong khe núi trườn ra. 
- Rồi sao nữa? 
- Nó dừng lại, nhìn em. 
- Nhìn lâu không? 
- Lâu lắm, anh Xtas ạ. Mãi cho tới khi em buôngthả những bông hoa xuống đất và lấy tay che mắt thì nó mới bắt đầu trườn đến phía em... 
Xtas chợt nghĩ ra rằng, giá như Nen là một cô bé da đen thì chắc hẳn đã bị con thú vồ ngay rồi, cô bé thoát được cũ ng còn do con thú ngạc nhiên không hiểu phải làm gì, vì lần đầu tiên nó mới được trông thấy một loài sinh vật lạ . 
Một cơn lạnh chạy khắp xương cốt cậu bé. 
- Ơn Chúa! Ơn Chúa! Là anh đã quay lại!... 
Rồi em hỏi tiếp: 
- Thế lúc đó em nghĩ gì? 
- Em muốn gọi anh... nhưng không gọi được... nhưng... 
- Nhưng sao? 
- Nhưng em vẫn nghĩ rằng anh sẽ bảo vệ em... Bản thân em cũng không biết nữa... 
Vừa nói thế, cô bé vừa quàng tay ôm lấy cổ Xtas, còn cậu bé vuốt vuốt tóc cô. 
- Em không sợ nữa chứ? 
- Không. 
- Mdimu của anh! Mdimu của anh! Em đã thấy thế nào là Phi châu chưa nào? 
- Thấy rồi, nhưng anh sẽ giết chết mọi con thú đáng ghét phải không anh? 
- Giết hết! 
Cả hai lại nhìn kĩ con vật ăn thịt một lần nữa. Xtas muốn giữ tấm da của con vật làm kỉ niệm nên bảo Cali lột da, nhưng cậu bé sợ có một con vôbô nữa từ khe núi lại mò đến chăng, nên nó xin bọn trẻ đừng để nó ở lại đây một mình. Trả lời câu hỏi rằng nó có sợ vôbô hơn sợ sư tử không, nó nói: 
- Sư tử chỉ rống ban đêm mà không nhảy qua hàng rào còn vôbô nhảy qua ngay cả ban ngày, giết nhiều nhiều người da đen ngay giữa làng, rồi bắt một người đem đi ăn thịt. Cả giáo lẫn cung nỏ đều không thể chống lại vôbô, vì không thể giết nổi vôbô đâu. 
- Nói bậy, - Xtas nói. - Cậu hãy nhìn xem nó có chết không kìa? 
- Ông lớn da trắng giết được vôbô, người da đen không giết được. - Cali đáp. 
Rốt cuộc bọn trẻ lấy dây buộc con mèo khổng lồ nọ vào mình ngựa, ngựa kéo nó về trại. Nhưng Xtas không giữ được bộ da của có vì con King, hình như hiểu được rằng vôbô định vồ cô chủ của nó, nó bèn nổi cơn giận dữ đến nỗi mệnh lệnh của Xtas cũng không ngăn nổi nó. Nó lấy vòi túm chặt con vật bị giết, tung lên không hai lần, rồi ra công quật vào thân cây, cuối cùng dùng chân giày xéo, biến xác nó thành một khối bèo nhèo không còn hình thù gì nữa, trông cứ như mứt nấu nhừ. Xtas chỉ kịp cứu lấy cái quai hàm, em đặt quai hàm cùng với phần đầu còn lại của con vật trên đường kiến đi, và chỉ trong một tiếng đồng hồ, lũ kiến đã khiến cho xương sạch đến nỗi, không còn sót lại trên đó một nguyên tử nào của máu thịt hết cả. 
-----. 
1 Nguyên văn: serval - một loại thú màu xám, to bằng con mèo rừng.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 40

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Bốn ngày sau đó, Xtas dừng chân nghỉ lâu hơn trên một ngọn núi gần giống núi Linđe, nhưng nhỏ hơn và chật hẹp hơn. 
Ngay trong buổi chiều hôm đó, sau một cuộc chiến đấu ác liệt, Xaba tha về một con vượn đực thật to mà nó tấn công khi con này đang đùa nghịch với những mảnh của chiếc diều, chiếc thứ hai trong số diều mà bọn trẻ thả trước khi lênđường đi đến đại dương. 
Tranh thủ việc dừng lại nghỉ, Xtas và Nen quyết định tiếp tục dán thêm những chiếc diều mới và thả lên khi nào có gió mạnh thổi từ Tây sang Đông. Xtas tính rằng chỉcần độ một cái rơi vào tay người Âu hoặc người Ả Rập, cũng sẽ khiến người ta chú ý và có thể khiến người ta phái đi những đoàn tìm kiếm thích hợp đểcứu chúng. Để chắ c chắn hơn, bên cạnh những dòng ghi bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, em ghi thêm cả tiếng Ả Rập, điều mà đối với em không mấy khó khăn, vì em biết tiếng Ả Rập rất giỏi. 
Ngay sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ấy, Cali nói rằng, trong dãy núi mà bọn trẻ đang trông thấy trướ cmặt, nó nhận ra một số đỉnh núi vây quanh con nước lớn màu đen, - tức là Baxxa Narốc, tuy nhiên nó không thật chắc chắn lắm, vì nhìn từ phía này, những ngọn núi ấy có hình thù hơi khác đi. Sau khiđi vượt qua một thung lũng nhỏ trông như một cái đáy hồ, mọc đầy cây khổ tô, bọn trẻ gặp một túp lều của những người thợ săn cô độc. Trong lều có hai người da đen, một người bị rắn chỉ1 cắn và đang ốm. Cả hai đều hoang dã và ngu độn, thêm nữa lạihoảng sợ vì sự có mặt của các vị khách bất ngờ, cứ tưởng là mình sẽ bị giết chết đến nỗi thoạt đầu không thể nào hỏi họ được chuyện gì cả. Mãi sau, mấy rẻo thịt khô mới khiến cho người bị thương nói được, té ra không những y chỉ bị thương mà còn bịđói nữa, vì ông bạn cho y ăn rất ít. Qua y, bọn trẻ được biết rằng cách đấy một ngày đường sẽ có những cái bản nhỏ rải rác do các chúa đất độc lập với nhau cát cứ, rồi tiếp đó, bên kia một trái núi dốcđứng là vùng đất của ngài Phumba, kéo dài mãisang phía Đông và phía Nam, kể từ con nước lớn. Xtas trút được gánh nặng khi nghe thấy điều đó, tâm hồn em tràn ngập một niền hân hoan mới mẻ.Dù sao đi nữa, bọn trẻ cũng đang ở ngưỡng cửa của xứ sở người Vahima rồi Dĩ nhiên khó mà đoán trước được cuộc hành trình sẽ được tiếp tục ra sao, tuy nhiên cậu bé vẫn cho rằng, dù thế nào đi nữa, chuyến đi sắp tới cũng sẽ không nặng nề hơn và cũng chẳng thể dài hơn con đường kinh khủng từ bờ sông Nin trở đi, con đường mà em đã vượt qua được nhờ sự tháo vát vô cùng, cũng chính trên đoạn đường đó em đã bảo vệ được cho Nen khỏi thiệt mạng. Em không hề nghi ngờ rằng, do có Cali, nên người Vahima sẽ đón bọn trẻ rất niềm nở và sẽ giúp đỡ chúng về mọi phương diện. Vả chăng, Xtas cũng đã hiểu biết nhiều về người da đen. Em biết đối với họ cần phải xử sự ra sao, và tin rằng, dù không có Cali đi chăng nữa, em cũng có thể đối phó đượ c với họ. 
- Em biết không, - Xtas bảo Nen, - tính từ Phasôđa trở đi, chúng mình đã vượt qua quá nửa chặng đường rồi đây, trên chặng đường trước mắt có thể chúng mình sẽ chạm trán với những người da đen rất dã man, nhưng sẽ không gặp quân phiến loạn nữa đâu. 
- Em thà gặp ngườ i da đen còn hơn, - cô bé đáp. 
- Chứ sao nữa, em được coi là nữ thần mà. Tôi bị bắt cóc cùng một cô bé tên là Nen từ Phaium, ấy thế mà tôi lại mang về một cô Mdimu nào đó. Anh sẽ nói với cha anh và bác Rôlixơ để không bao giờ gọi em bằng cái tên nào khác. 
Mắt cô bé sáng lên ánh cười. 
- Có thể chúng mình sẽ gặp được cha ở Mombaxa không anh? 
- Cũng có thể. Giá như không có cuộc chiến tranh đang diễn ra ở bờ hồ Baxxa Narốc thì chúng mình có thể tới đó nhanh hơn nữa. Cái ông Phumba này phải dính vào chuyện đó làm gì cơ chứ. 
Nói vậy xong, em vẫy Cali: 
- Cali này, người da đen đang ốm ấy cho nghe nói gì về chiến tranh không? 
- Có nghe. Đang có chiến tranh to, rất to: Phumba đánh nhau với người Xamburu. 
- Sẽ thế nào bây giờ nhỉ? Chúng mình làm sao đi qua xứ sở người Xamburu được? 
- Quân Xamburu sẽ phải chạy trốn trước ông lớn, trước King và trước cả Cali nữa. 
- Trước cả cậu nữa á? 
- Trước cả Cali nữa, vì Cali có khẩu súng, khẩu súng biết gầm thét và giết được người. 
Xtas bắt đầu phải suy nghĩ xem cần tham gia như thế nào trong cuộc giao tranh giữa các bộ lạc người Vahima và người Xamburu, em quyết định sẽ hướng cuộc giao tranh này sao cho chiến tranh không cản trở gì tới chuyến đi. Em hiểu rằng, việc bọn trẻ xuất hiện là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ khiến cho ông Phumba cầm chắc phần thắng. Chỉ cần làm sao giành được thắng lợi thấy trước một cách thích hợp mà thôi. 
Trong những cái bản nhỏ mà người thợ săn nói đến, bọn trẻ lại thu được nhữ ng tin mới. Những tin đó ngày càng thấy rõ hơn rằng ông Phumba đang ở thế bất lợi. Bọn trẻ biết được rằng ông Phumba phải chiến đấu tự vệ, và quân Xamburu, dưới sự thống lãnh của vị vua tên là Mamba đã chiếm được một phần đáng kể lãnh thổ của người Vahima, họ bắt được rất nhiều bò sữa. Người ta kể rằng, chiến cuộc đang sôi động chủ yếu về phía Nam con nước lớn, nơi cái bôma(1) lớn của ông Phumba một khối đá cao và rộng rãi. 
Những tin tức ấy khiến Cali rất lo ngại, cậu bé yêu cầu Xtas làm sao vượt thật nhanh qua trái núi đang ngăn cách chúng nó với vùng đang lan tràn ngọn lửa chiến tranh, nó cam đoan sẽ tìm được con đường có thể sử dụng không những cho ngựa mà còn cho cả con King. Bọn trẻ đã đến được vùng mà nó rất thông thuộc, và đến lúc này nó hoàn toàn nhận ra những đỉnh núi quen thuộc ngay từ thời thơ ấu. 
Tuy nhiên, đường vượt núi hoàn toàn không dễ chút nào, và nếu không có sự giúp đỡ của những người dân trong cái làng gần đấy nhất, những người mà bọn trẻ thuê được bằng những món quà tặng, thì hẳn là chú ng đã phải tìm cho King con đường khác rồi. 
Những người này thuộc những khe núi nằm bên này núi hơn Cali, và sau hai ngày đường khó nhọc, ban đêm rất lạnh - cuối cùng họ cũng đã đưa được cả đoàn vượt qua đèo một cách may mắn. Còn con đường từ đèo xuống thung lũng đã là xứ sở của người Vahima. 
Sáng sớm, Xtas cho dừng lại nghỉ chân trong cái thung lũng hoang vu đầy cây cối ấy. Còn Cali thì đã lên đường ngay từ đêm, nó xin được tự do cưỡi ngựa đi thám thính về hướng cái bôma của cha ở cách đấy một ngày đường. Suốt cả ngày, Xtas và Nen chờ đợi nó, lòng đầy lo lắng - bọn trẻ đã tưởng nó bị chết (1) Bôma cũng là dêriba đối với vùng Xuđan. Cái bôma lớn có thể là một pháo đài hoặc một cái trại quân có công sự phòng ngự. 
hoặc bị rơi vào tay kẻ thù rồi, thì đột nhiên nó xuất hiện trên lưng con ngựa gầy tóp lại, hàm đầy bọt, bản thân nó cũng mệt mỏi và thảm thương đến nỗi nhìn nó thật không cầm lòng nổi. 
Nó lập tức sụp xuống chân Xtas và cầu xin cứu viện. 
- Ôi, thưa ông lớn! - Nó nói. - Người Xamburu thắng các chiến sĩ của Phumba, giết chết nhiều người lắm, còn những người nào chúng không giết được thì bỏ chạy, chúng vây chặt Phumba và các chiến sĩ không có gì để ăn, họ sẽ chết thôi nếu ông lớn không giết ngay Mamba và tất cả những thằng Xamburu khác cù ng đi với Mamba. 
Nó ôm ghì lấy đầu gối của Xtas mà van xin, Xtas thì nhíu mày, cân nhắc thật kĩ về điều cần phải làm, vì lúc nào và ở đâu đi nữa, em cũng nghĩ trước hết đến Nen. 
- Những chiến sĩ của ông Phumba bị quân Xamburu đuổi chạy hiện nay đang ở đâu? - Mãi sau nói hỏi. 
- Cali đã tìm được họ và họ sẽ tới đây ngay bâygiờ. 
- Có bao nhiêu người? 
Cậu bé da đen động đậy hơn chục lần những ngón tay ở cả tay và chân nhưng rõ ràng là nó không thể tính được chính xác số người, vì lí do rất đơn giản là nó không biết tính đến số lớn hơn mười, số nào lớn hơn nữa đối với nó chỉ là vengi tứ c là “nhiều” mà thôi. 
- Vậy khi họ tới đây, cậu hãy chỉ huy họ đến giải vây cho cha cậu, - Xtas bảo. 
- Bọn họ sợ người Xamburu, họ sẽ không đi với Cali đâu, nhưng với ông lớn thì họ sẽ đi, sẽ giết vengi, vengi quân Xamburu. 
Xtas lại phải suy nghĩ. 
- Không, tớ không thể mang cô bé vào trận cũng không thể để cô bé một mình, - em nói, - tớ không thể làm chuyện đó, dù cho có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. 
Nghe thấy thế, Cali nhổm ngay dậy, vòng tay lại và lặp đi lặp lại nhiều lần: 
- Luela! Luela! Luela! 
- Luela là cái gì! - Xtas hỏi. 
- Là cái bôma lớn dành cho đàn bà Vahima và Xamburu, - cậu bé da đen đáp. 
Rồi nó bắt đầu kể những chuyện thật kì lạ. Đã từ nhiều năm nay, Phumba và Mamba liên tiếp đánh nhau. Họ thiêu trụi của nhau những cánh đồng, bắt súc vật của nhau. Nhưng trên bờ hồ về phía Nam có một địa điểm tên là Luela, tại đó phụ nữ của cả hai dân tộc vẫn họp chợ một cách hoàn toàn yên ổn, ngay cả trong những cuộc chiến đấugay go nhất. Đó là một nơi thiêng liêng. 
Chiến tranh chỉ diễn ra giữa những người đàn ông, không một sự bại trận hay chiến thắng nào ảnh hưởng tới số phận của các bà. 
Tại Luela, trong cái chợ có tường đất sét vây quanh, đàn bà có được một nơi ẩn tránh hoàn toàn yên ổn. Trong khi đang có đánh nhau, nhiều người cùng với trẻ con và tài sản tới ẩn náu ở đó. 
Nhữ ng người khác thì đi tới những làng rất xa, mang về thịt khô, đậu, kê, sắn và đủ thứ thực phẩm khác. Đám đàn ông không được đánh nhau cách Luela một tầm tiếng gà(2). Họ cũng không được phép vượt qua bức tường đất sét bao quanh chợ. Họ chỉ được phép đứng trước bức tường đó, khi ấy những người phụ nữ đưa thức ăn cho họbằng cách buộc vào những chiếc sào tre. Đó là một phong tục lâu đời và chưa có trường hợp nào các bên tham chiến vi phạm luật lệ ấy cả. Kẻ thắng trận bao giờ cũng cố gắng cắt đường về Luela của kẻ bại trận, không cho phép những người này tiến đến gần nơi thiêng liêng ấy hơn một tầm tiếng gà gáy. 
- Ô, ông lớn ơi, - Cali lại ôm đầu gối của Xtasvan xin, - ông lớn hãy đưa cô bé tới Luela, rồi ông lớn dẫn King, dẫn Cali, cầm súng, cầm những con rắn lửa đi giết những thằng Xamburu hung ác. 
Xtas tin những lời kể của cậu bé da đen. Trước đó em cũng đã từng nghe nói rằng nhiều nơi ở Phi châu, chiến cuộc không bao giờ động tới phụ nữ cả. Em nhớ, có lần, tại Port Xaiđơ, một vị cố đạo ngườiĐức đi truyền giáo về có kể rằng, trong vùng dãy núi lớn Kilima Njarô, ngay cả một bộ lạc rất hung ác là bộ lạc Maxxai(3) cũng giữ gìn cái luật lệ thiêng liêng là phụ nữ của hai bên tham chiến hoàn toàn được tự do đi chợ mà không bao giờ bị tấn công. 
Xtas rất vui vì trên bờ Baxxa Narốc cũng có phong tục đó, em có thể tin chắc rằng không có mối nguy hiểm nào đe dọa Nen dù có cuộc chiến. Thế là em quyết định sẽ cùng cô bé đi ngay tới Luela; hơn nữa, trước khi cuộc chiến này kết thúc thì không thể nghĩ tới việc đi tiếp tục được, bởi chuyến đi đó không những cần đến sự giúp đỡ của người Vahima mà cả của người Xamburu nữa. 
Vốn quen quyết định rất nhanh, em hiểu rõ mình sẽ phải hành động như thế nào. Giải thoát cho ông Phumba, đánh tan quân Xamburu, nhưng không cho phép người Vahima được trả thù một cách đẫm máu, rồi sau đó ban bố lệnh hòa bình và giải hòa hai bên tham chiến - em nghĩ những việc đó là rất cần thiết, không phải chỉ riêng đối với em, mà cả với người da đen nữa, và đó là việc có lợi nhất. “Cần phải thế - thì nhất định sẽ như thế!” Em tự nhủ thầm. Và để an ủi cậu bé da đen mà em rất thương, Xtas bèn nói rằng em không từ chối giúp đỡ. 
- Từ đây tới Luela có xa không! - Em hỏi. 
- Nửa ngày đường. 
- Thế thì cậu nghe này: chúng mình phải đưangay cô bé tới đó, rồi tớ sẽ cưỡi con King đuổi quân Xamburu ra khỏi bôma của cha cậu. Cậu sẽ đi cùng tớ và sẽ chiến đấu cùng với tớ. 
- Cali sẽ giết chúng bằng súng. 
Rồi chuyển ngay từ tuyệt vọng sang trạng thái sung sướng, nó bắt đầu nhảy nhót, cườ i và cảm ơn Xtas nhiệt thành như đã chiến thắng rồi vậy. Song sự bùng nổ của lòng biết ơn và sự vui sướng của nó bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của những chiến sĩ mà trong cuộc đi thám thính của mình nó đã tập hợp được và đã ra lệnh cho họ phải ra mắt ông lớn da trắng. Họ có khoảng ba trăm người, được vũ trang bằng những chiếc khiên làm bằng da hà mã,đòng, cung nỏ và dao. Đầu họ mang lông chim, những cành dương xỉ và chỏm lông sọ của những con vượn. Nhìn thấy con voi đang thuần phục người, nhìn thấy mặt những người da trắng, thấy Xaba cùng lũ ngựa, họ rất sợ hãi và kinh ngạc, giống như những người da đen khác trong các làng bản mà đoàn đã đi qua. 
Nhưng Cali đã nói với họ ngay từ đầu rằng họ đang được trông thấy Mdimu Tốt cùng ông lớn, “người giết cả sư tử, giết cả vôbô, người khiến voi phải sợ, người phá vỡ tung đá núi, người thả những con rắn lửa”v.v..., nên thay vì bỏ chạy, họ đứng thành hàng dài trong sự lặng im đầy ngạc nhiên, chỉ đảo đảo tròng mắt, không hiểu phải quỳ hay úp mặt xuống đất, nhưng lòng họ thì tràn đầy tin tưởng rằng nếu con người phi thường này giúp thì họ sẽ chiến thắng được quân Xamburu. Xtas đi dọc theo hàng quân trên mình voi, như một vị thủ lĩnh đi duyệt binh, rồi ra lệnh cho Cali nhắc lại cho họ rõ lời hứa của mình và hạ lệnh xuất phát, tiến về hướng Luela. 
Cùng với vài chiến sĩ nữa, Cali đi trước để bảo với phụ nữ cả hai bộ lạc rằng họ được cái may mắn không ngờ và phi thường là được nhìn thấy Mdimu Tốt cưỡi voi tới đó. Chuyện ấy phi thường đến nỗi, ngay cả những người phụ nữ Vahima nhận ra Cali chính là người kế vị ngai vàng bị mất tích trong thời gian vừa qua, cứ ngỡ là vị hoàng tử trẻ tuổi đang nói đùa với họ, và ngạc nhiên là tại sao nó lại muốn nói đùa trong cái thời buổi rất nặng nề đối với toàn bộ bộ lạc và với riêng ông Phumba này. Tuy nhiên, vài giờ sau, khi trông thấy con voi khổng lồ đang tiến gần lại bức tường, trên lưng voi có cái bành trắng, thì họ cuồng lên vì sung sướng, và chào đón Mdimu Tốt bằng những tiếng kêu và tiếng hú, đến nỗi thoạt tiên Xtas ngỡ rằng đó là những tiếng kêu thù địch; thêm nữa, những người phụ nữ da đen đó xấu xí đến nỗi trông họ giống như những mụ phù thủy. 
Song đó chỉ là dấu hiệu của sự thành kính vô cùng mà thôi. 
Khi cái lều của Nen được dựng lên tại góc chợ, dưới bóng mát của hai cái cây lá cành rậm rạp, thì những người phụ nữ Vahima và Xamburu liền lấy hoa kết thành tràng trang điểm cho nó, rồi họ mang tới nhiều thức ăn, đủ dùng trong một tháng ròng, không chỉ riêng cho “vị nữ thần” mà cả cho đoàn hộ tống nữa. Những người đàn bà thành kính thậm chí còn cúi lạy cả Mêa; cô bé mặc quần áo bằng lụa màu hồng, đeo mấy chuỗi hạt cườm, nên đối với họ, cô hầu của Mdimu Tốt hẳn là cao sang hơn nhiều so với những người đàn bà da đen bình thường. 
Vì đang còn ở tuổi thiếu niên, Nasibu được phép vào trong bờ thành, thế là nó bèn tranh thủ sử dụng ngay những cống vật mà người ta mang tới tặng Nen, đến nỗi một tiếng đồng hồ sau đó, cái bụng của nó căng tròn như một chiếc trống trận Phi châu. 
--------------------. 
1 Filandria medinensis, một loại sâu bọ mảnh như sợi chỉ, dài hơn một thước. Khi bị nó cắn, người ta có thể bị hoại huyết. (Chú thích của tác giả). 
2 Có nghĩa là khoảng cách mà từ đó có thể nghe tiếng gà gáy. 
3 Bộ lạc này có thực.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 41

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Nhưng Xtas chỉ nghỉ một chốc bên những bờ thành của Luela rồi liền dẫn Cali cùng ba trăm chiến sĩ đi về phía cái bôma của ông Phumba ngay trước khi mặt trời lặn, vì nó muốn đánh quân Xamburu ngay trong đêm. Nó tính rằng, ban đêm, “những con rắn lửa” sẽ gây tác dụng lớn hơn nhiều. Kể cả những chỗ nghỉ, từ Luela tới núi Bôcô, nơi ông Phumba đương chống giữ, mất chín giờ đồng hồ đi đường, cho nên mãi tới ba giờ sáng họ mới đến được dưới chân thành. Xtas bảo các chiến sĩ dừng lại và ra lệnh giữ im lặng tuyệt đối cho tới giờ hànhđộng, rồi em bắt đầu quan sát địa thế. Đỉnh núi, nơi những người cố thủ đương náu mình, hoàn toàn tối, còn quân Xamburu thì lại đốt lên rất nhiềuđống lửa. Ánh lửa chiếu sáng những vách đá dốc và những cây khổng lồ mọc sát chân núi. Từ xa vẳng về tiếng trống trầm trầm cùng những tiếng kêu và tiếng hát của các chiến sĩ: hẳn là họ đang nốc bia pômba để mừng thắng lợi cuối cùng đã gần kề. Dẫn đầu toán quân của mình, Xtas tiến sát thêm nữa, chỉ cách những đống lửa gần nhất không quá một trăm bước chân. Không hề thấy quân canh trại đâu cả, đêm lại không có trăng, nên những người dân hoang sơ kia không trông thấy được con King; thêm nữa nó lại được cây cối che khuất. Ngồi trên đầu voi, Xtas ra những mệnh lệnh cuối cùng, rồi ra hiệu cho Cali bắn một phát pháo hiệu đã chuẩn bị sẵn. Vừa kêu rít lên, dải lửa màu đỏ vừa bay vút lên bầu trời tối đen, rồi nó bùng nổ, tỏa thành những chùm sao đỏ, xanh và vàng rực. Mọi thứ tiếng động đều im bặt, nhường chỗ cho một sự im lặ ng chết chóc bao trùm. 
Vài giây sau, hai con rắn lửa nữa bay vọt đi như réo lên tiếng cười kinh rợn, nhưng lần này chúng bay ngang, hướng thẳng về phía trại quân Xamburu, đồng thời dậy lên tiếng rống của King và tiếng reo hò vang động của ba trăm người Vahima.Được vũ trang bằng những chiếc giáo axagaie, khiên và dao, họ lao thẳng về phía trước. Cuộc chiến đấu nổ ra, cuộc chiến đấu càng trở nên kinh khủng vì nó diễn ra trong bóng tối, bởi trong cảnh lộn xộn, tất cả các đống lửa đều bị dập tắt ngóm. Song ngay từ đầu, những con rắn lửa đã khiến cho quân Xamburu sợ hết hồn. Những gì đang diễn ra vượt quá sự hiểu biết của họ. Họ chỉ biết rằng có những loài vật gì đó rất kinh khủng tấn công họ, rằng họ đang bị đe dọa bởi cái chết kinh người, không chốnglạ i nổi. Đa số quân Xamburu chạy tháo thân, trước khi những cái giáo và gậy của người Vahima kịp động tới da họ. Hơm trăm chiến sĩ mà vua Mamba kịp tụ tập chung quanh mình chiến đấu dữ dội để tự vệ, song đến khi trong những ánh chớp đạn, họ trông thấy con vật khổng lồ, trên lưng nó là một người mặ c đồ trắng, khi tai họ nghe tiếng súng mà Cali cứ chốc chốc lại nổ một phát, thì tim họ rụngrời. Ở trên núi, khi nhìn thấy phát pháo hiệu đầu tiên nở tung ra trên không trung, thì cả vua Phumba cũng ngã xệp xuống đất và nằm như chết mấy phút liền vì hoảng sợ. Nhưng sau khi định thần lại, nghe thấy tiếng kêu hú tuyệt vọng của các chiến sĩ, ông hiểu được một điều là có những vị thần nào đó đang đánh tan quân Xamburu dưới kia. Khi ấy trong đầu óc ông chợt lóe ra một ý nghĩ nếu như không nhanh chân đến trợ sức cho những vị thần kia, thì cơn giậ n dữ của họ có thể sẽ quay lạ i chống ông ta cũng nên. Và vì sự tiêu diệt người Xamburu cũng là sự giải thoát cho ông, nên ông bèn tụ tập những chiến sĩ của mình, theo đường bên khuất kín ra khỏi bôma cắt đường rút lui của đại bộ phận những kẻ bỏ chạy. Lúc này trận đánh đã biến thành một cuộc tàn sát. Những cái trống của người Xamburu ngừng kêu. Trong ánh sáng nhập nhoạng và những ánh lửa lóe ra từ họng súng của Cali, rú lên tiếng kêu thét của những kẻ bị giết, tiếng rên rỉ của những kẻ bị thương. Không có ai kêu van cả vì người da đen không hề biết đến điều đó. Sợ rằng trong bóng tối và sự hỗn độn sẽ bắn phải người của mình, nên Cali thôi không dùng súng nữa; và nắm chặt thanh kiếm của Ghebơrơ, nó lao vào giữa đám quân địch. Lúc này, người Xamburu chỉ có thể chạy trốn từ trên núi về phía biên giới của họ bằng một khe núi rộng độc nhất, nhưng khe núi này đã bị Phumba cùng các chiến sĩ của ông chặn ngang, nên cả đoàn quân chỉ còn lại những kẻ nằm mọp xuống đất chờ người ta bắt là còn sống sót, mặc dù chúng biết rõ ràng một cuộc sống nô lệ nặng nề và kinh khủng hoặc một cái chết ngay lập tức từ tay những kẻ chiến thắng đang chờ đợi chúng. 
Mamba anh dũng chống cự cho tới khi một cái matruga đập cho y vỡ sọ. Con trai của y là Pharu rơi vào tay ông Phumba, ông bèn ra lệnh trói hắn lại để làm vật tế thần sau này, những vị thần đã tới trợ giúp ông ta. 
Xtas không thúc con King vào trận, em chỉ cho phép con vật rống lên để làm tăng thêm nỗi kinh hoàng cho quân địch mà thôi. 
Em cũng không nổ một phát súng nào vào quân Xamburu, vì trước hết, khi rời Luela em đã hứa với bé Nen là sẽ không giết chết thêm một ai nữa, sau nữa, quả tình em không hề có ý muốn giết người, những người không làm gì hại em và Nen. Chỉ cần làm sao bảo đảm thắng lợi cho quân Vahima và giải vây được cho ông Phumba đang bị khốn đốn trong cái bôma lớn là đủ. Cho nên ngay sau khi Cali chạy đến báo tin đã hoàn toàn thắng trận, em ra lệnh cho cậu bé chấm dứt ngay trận đánh đang diễn ra trong những lùm cây, hẽm đá do sự hăng máu của ông Phumba khiến cho kéo dài. 
Tuy nhiên, trước khi Cali kịp ngưng chiến trận thì trời đã sáng. Nhưng thường thường ở vùng nhiệt đới, mặt trời nhô lên rất nhanh từ phía sau những ngọn núi và chiếu ánh nắng rực rỡ xuống chiến trường, nơi hơn hai trăm xác chết quân Xamburu nằm ngổn ngang, bị giáo đâm hoặc matruga đánh. 
Một lúc lâu, sau khi cuộc đánh nhau đã tàn hẳn, chỉ có tiếng hú vui mừng của người Vahima khuấy động bầu không khí yên tĩnh buổi sáng, Cali lại xuất hiện, nhưng nét mặt nó buồn thảm đến nỗi ngay từ xa cũng đã có thể thấy rằng nó gặp phải một điều bất hạnh nào đó. 
Đứng trước mặt Xtas nó đấm tay vào đầu kêu lên một cách thảm thiết: 
- Ôi ông lớn ơi, Phumba kupha (bị giết) rồi! 
- Bị giết rồi à? - Xtas hỏi lại. 
Cali kể lại mọi chuyện, qua lời nó, có thể hiểu rằng nguyên nhân chỉ là do sự hăng máu của ông Phumba mà thôi, vì khi trận đánh đã kết thúc rồi, ông còn muốn hạ thêm hai người Xamburu nữa, một trong hai người này đã đâm ông một mũi giáo. 
Trong chớp mắt cái tin đó lan tới khắp tất cả những người Vahima và họ bắt đầu tụ tập chung quanh Cali. Lát sau, sáu chiến sĩ cáng xác vị vua già tới trên thân giáo, ông chưa chết nhưng bị thương nặng, và trước khi chết ông còn muốn được nhìn thấy vị chủ hùng mạnh ngồi trên đầu voi, con người đã chiến thắng quân Xamburu. 
Nỗi kinh ngạc khôn cùng còn giằng co trong mắt ông với bóng tối của cái chết đang che mờ, đôi môi đã nhợt nhạt có cái vòng pêlêlê xuyên qua còn khe khẽ thì thào: 
- Yancig! Yancig!... Nhưng ngay lập tức, đầu ông ngật ra đằng sau, mồm ông há hốc ra và ông qua đời. 
Vốn yêu cha, Cali òa lên khóc và ngả người lên ngực ông. Các chiến sĩ, một số người thì đấm tay vào đầu, còn một số khác bắt đầu tung hô Cali là vua và kêu lên những tiếng yancig để mừng nó. Một số người sụp xuống trước mặt vị vua mới. Không có tiếng nói nào chống lạ i, vì quyền kế vị thuộc về Cali, không những chỉ theo luật - nó là con trưởng của vua Phumba - mà vì nó là người chiến thắng. 
Lúc đó, trong nhà của các vị phù thủy trên đỉnh núi, bắt đầu vang lên những tiếng kêu rít dữ tợn của Mdimu Ác, những tiếng kêu mà Xtas đã từng nghe ở cái làng người da đen đầu tiên, nhưng lần này những tiếng gào hú đó không phải nhằm chống lại em mà là đòi trả thù bằng cái chết của cá c tù binh. Trống lại gầm lên. Các chiến sĩ sắp thành một dây dài, ba người một, bắt đầu nhảy điệu vũ chiến thắng chung quanh Xtas, Cali và cái xác của ông Phumba.
- Oa! Oa! Yah! Yah! - Tất cả mọi người đều lặp đi lặp lại, đầu họ gật gù theo một chuyển động đơn điệu sang trái rồi sang phải, mắt họ đảo lên, và những mũi giáo loang loáng trong ánh mặt trời buổi sáng. 
Cali nhổm dậy, quay lại phía Xtas và nói: 
- Ông lớn hãy mang cô bé vào cái bôma lớn, ở nhà của Phumba. Cali là vua của người Vahima, nhưng ông lớn lại là vua của Cali. 
Xtas gật đầu ra dấu đồng ý, nhưng em còn ở lại đó mấy tiếng đồng hồ nữa, vì cả em cùng con King đều cần được nghỉ ngơi. 
Gần chiều em mới ra đi. Trong khi em vắng mặt, thi thể những người Xamburu bị chết được dọn đi và ném xuống một cái vực sâu gần đấy, trên trời hàng đàn diều hâu quay lượn. Các phù thủy bắt đầu chuẩn bị chôn cất ông Phumba, và Cali lên nắm chính quyền, trở thành ông chủ duy nhất quyết định mạng sống và cái chết của những kẻ thuộc hạ. 
- Em có biết Cali là ai không? - Xtas hỏi cô bé Nen trên đường từ Luela quay về. Nen nhìn nó ngạc nhiên. 
- Là bồi của anh. 
- Ha ha! Bồi! Cali bây giờ là vua của tất cả dânVahima rồi. 
Nen rất vui mừng vì cái tin đó. Cô bé thấy thật là buồn cười vì sự biến đổi bất thần, trong đó người nô lệ của tên Ghebơrơ tàn bạo và là người hầu cận ngoan ngoãn của Xtas lại trở thành một vị vua. 
Tuy nhiên, điều lưu ý của ông Linđe cho rằng, người da đen cũng giống như những đứa trẻ, họ không thể nhớ được những gì vừa xảy ra hôm qua, là không đúng nếu áp dụng cho Cali. Vì khi Xtas và Nen vừa tới chân núi Bôcô, thì vị vua trẻ tuổi nọ đã vội vàng chạy ngay ra đón, nó chào cả hai bằng những động tác thông thường biểu thị sự tuân phục và sung sướng, rồi nhắc lại lời nó đã nói hôm qua: 
- Cali là vua của người Vahima, nhưng ông lớnlại là vua của Cali. 
Nó đối xử với cả hai với sự thành kính gần như dành cho các vị thần, đặc biệt trước mặt dân chúng, nó cúi chào Nen, vì qua kinh nghiệm thu được dọc đường, nó biết rằng ông lớn lo lắng cho cô bé còn hơn lo cho bản thân mình. 
Sau khi long trọng dẫn hai trẻ lên đỉnh núi, đến kinh thành, Cali nhường cho bọn trẻ cái nhà của ông Phumba, trông giống như một cái lều được chia thành nhiều buồng, Cali ra lệnh cho những người phụ nữ Vahima cùng đi với bọn trẻ từ Luela về - họ cứ chăm chăm nhìn mãi Mdimu Tốt không chán mắt - xếp đặt trong căn buồng đầu tiên những chiếc bồn gỗ lớn đựng đầy mật ong và sữa chua, và khi nó được biết rằng cô bé đã ngủ thiếp đi vì mệt nhọc trong khi đi đường, nó bèn ra lệnh cho tất cả dân chúng phải giữ im lặng tuyệt đối, ai không tuân lệnh sẽ bị tội cắt lưỡi. Song Cali còn định sẽ tiếp đón bọn trẻ long trọng nữa, nên sau khi Xtas được nghỉ ngơi một chút bước ra khỏi lều, nó bèn tiến lại gần, cúi chào rồi nói: 
- Ngày mai Cali sẽ ra lệnh chôn cất vua Phumbavà chặt đầu tế vua Phumba, và để dâng Cali một số nô lệ bằng số ngón tay của cả hai bàn tay. Còn để dâng cô bé và ông lớn, Cali sẽ ra lệnh chặt đầu Pharu, con trai của Mamba, cùng vengi, vengi thằng Xamburu nữa bị rơi vào tay người Vahima. 
Xtas nhíu mày, cặp mắt màu thép của em nhìn thẳng vào mắt Cali rồi trả lời: 
- Tớ cấm cậu không được làm chuyện đó. 
- Thưa ông chủ, - cậu bé da đen nói với giọngkhông tự tin lắm, - người Vahima bao giờ cũng chặt đầu nô lệ. Vua già chết - chặt đầu, vua trẻ lên ngôi chặt đầu. Nếu Cali không ra lệnh cho họ chặt đầu thì người Vahima có thể nghĩ rằng Cali không phải là vua. 
Xtas mỗi lúc một nhìn nó vẻ nghiêm khắc hơn. 
- Thế ra, - em hỏi, - cậu chẳng học được gì trênnúi Linđe cả sao? Thế ra cậu không phải là người Thiên Chúa giáo hay sao? 
- Phải chứ, thưa ông lớn. 
- Thế thì cậu hãy nghe đây. Người Vahima có cái não đen, nhưng não của cậu phải màu trắng. Nếu cậu đã là vua của họ, thì cậu phải soi sáng đầu óc họ và phải dạy lại họ những gì cậu đã học được ở tớ và cô bé chứ. Họ đang giống như lang núi, như linh cẩu - cậu hãy làm cho họ trở thành con người. Hãy bảo họ rằng không được chặt đầu tù binh, vì Linh thần Vĩ đại - vị Linh thần mà tớ và cô bé đều cầu nguyện - sẽ trừng phạt khi máu của con người không chút khí giới tự vệ đổ ra. Người da trắng không giết tù binh, còn cậu lại muốn đối xử với họ tồi tệ hơn là tên Ghebơrơ đã đối xử với cậu, trong khi cậu là người Thiên Chúa giáo. Hãy biết xấu hổ chứ, Cali, hãy thay đổi những phong tục cũ xấu xa của người Vahima bằng những phong tục mới. Chúa sẽ ban phước lành cho cậu, còn cô bé thì sẽ không bảo Cali là một tên da đen dã man, ngu ngốc và độc ác. 
Những tiếng rú rít kinh khủng trong lều của các phù thủy át mất lời của em, Xtas khoát tay nói tiếp: 
- Tớ có nghe chứ! Đó là Mdimu Ác của các cậu đang đòi máu và đầu lâu người đấy. Nhưng chính cậu cũng biết rõ tiếng đó là gì, và nó không làm cậu sợ nữa rồi. Tớ nói với cậu thế này: hãy lấy một cái roi tre, đi đến từ ng lều một và hãy nện vào da bọn phù thủy cho tới khi nào chúng bắt đầu kêu to hơn trống của chúng. 
Còn trống thì hãy ném ra giữa bôma để cho tất cả mọi người Vahima đều được trông thấy và hiểu rằng bọn đểu cáng ấy lừa dối họ. Hãy nói cho những người Vahima ngu ngốc của cậu những gì mà cậu đã nói với lũ làng của M'Rua, rằng nơi nào mà Mdimu Tốt đặt chân tới, nơi đó máu người không thể đổ ra nữa. 
Nhữ ng lời của Xtas rõ ràng đã khiến cho vị vua trẻ tin, nên Cali nhìn em mạnh bạo hơn và nói: 
- Cali đánh, a, đánh đuổi bọn phù thủy, ném hết trống và bảo cho người Vahima biết rằng nơi nào có Mdimu Tốt, nơi ấy không được phép giết một ai cả. Nhưng Cali phải làm gì với Pharu và những người Xamburu, những kẻ đã giết chết Phumba? 
Xtas đã sắp đặt mọi thứ trong đầu, em chỉ chờ có câu hỏi đó, nên trả lời ngay lập tức: 
- Cha cậu chết thì cha của anh ta cũng chết, thế là đầu đổi đầu rồi. Hãy cắt máu ăn thề kết nghĩa với Pharu, rồi người Vahima và người Xamburu sẽ sống trong hòa thuận, sẽ yên tâm trồng sắn và đi săn. Cậu hãy kể cho Pharu nghe về vị Linh thần vĩ đại, người cha chung của tất cả những người da trắng và da đen, rồi Pharu sẽ yêu mến cậu như một người anh em ruột thịt. 
- Cìờ thì Cali có cái óc trắng rồi! - Cậu bé da đenđáp. 
Câu chuyện kết thúc tại đó. Một lát sau vang lên những tiếng rú hét rùng rợn, nhưng đó không phải là tiếng Mdimu Ác nữa, mà là tiếng của hai tên phù thủy đang bị Cali nện cho nên thân. Các chiến sĩ đang vây quanh con King dưới chân núi thành một vòng chật cứng, vội vã lao lên núi xem có chuyện gì xảy ra, và họ được trông thấy tận mắt cũng như qua lời khai của những tên phù thủy, rằng cái ma Mdimu Ác vẫn khiến họ run sợ cho tới nay chỉ là một khúc thân cây rỗng lòng bịt da khỉ mà thôi. 
Còn chàng thanh niên Pharu, khi được người ta báo cho biết rằng không bị chặt đầu để hiến tế Mdimu Tốt và “ông lớn” mà Cali sẽ “ăn một miếng” của y, còn y sẽ “ăn một miếng” của Cali, thì y không dám tin vào tai mình nữa, rồi lát sau, khi biết mình được ai cứu sống, y bèn áp mặt xuống đất khi bước vào lều của ông Phumba, và cứ nằ m như thế cho đến khi Nen phải ra bảo y đứng dậy. Y bèn dùng hai bàn tay màu đen của mình ôm lấy bàn chân nhỏ bé của cô bé đặt lên đầu mình để biểu thị rằng suốt cả đời y muốn được làm nô lệ cho Nen. 
Người Vahima rất kinh ngạc trước nhữ ng mệnh lệnh của vị vua mới, nhưng sự có mặt của những vị khách khác thường mà họ xem là những vị phù thủy hùng mạnh nhất trên đời, đã khiến cho không có kẻ nào dám chống lại. 
Tuy nhiên, nhữ ng người già không vui mừng gì trước những phong tục mới mẻ đó, còn hai tên phù thủy thì hiểu rằng thời tốt đẹp của chúng đã vĩnh viễn chấm dứt, chúng thề trong lòng sẽ trả thù vị vua mới cù ng những vị khách kia thật ghê gớm. 
Người ta chôn cất ông Phumba một cách trọng thể dưới chân núi đá của kinh thành. Cali cắm trên mồ ông một cái thập ác bằng tre, còn người da đen thì đặt lên mồ ông mấy hũ bia pompe và mấy chậu thịt khô, “để ông không về hành hạ và đe dọa họ đêm đêm”. 
Sau lễ kết nghĩa anh em máu thịt giữa Cali và Pharu, người ta trả xác Mamba cho người Xamburu.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 42

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

- Nen, em có tính được những chặng đường của húng mình kể từ Phaium không? - Xtas hỏi. 
- Được chứ. 
Rồi cô bé rướn lông mày lên bắt đầu tính trên đầu ngón tay. 
- Khoan đã nhé. Từ Phaium đến Kháctum - làmột; từ Kháctum tới Phasôđa - là hai, từ Phasôđa tới cái khe núi chúng mình tìm được con King - là ba, còn từ núi Linđe tới hồ này - là bốn. 
- Đúng. Có lẽ trên thế giới không có con ruồi thứhai nào bay được qua suốt một phần Phi châu như thế đâu. 
- Giá như không có anh thì con ruồi ấy trông mới hay chứ! Cậu bé bật cười. 
- Ruồi cưỡi trên voi! Ruồi cưỡi trên lưng voi! 
- Nhưng không phải là ruồi tse tse, phải khônganh Xtas, không phải ruồi tse tse? 
- Không phải, - cậu bé đáp - mà một cô ruồi kháđáng yêu. 
Sung sướng vì lời khen, Nen tì cái mũi nhỏ xíu vào tay anh, rồi hỏi: 
- Thế bao giờ chúng mình bắt đầu đoạn thứ nămhả anh! 
- Khi nào em nghỉ ngơi được chút ít, còn anh thì ập luyện cho những người mà Cali hứa sẽ cho chúng biết bắn súng. 
- Nhưng chúng mình đi có lâu không anh? 
- Ôi, lâu, Nen ạ, lâu đấy! Biết đâu đây chẳng là uãng đường dài hơn cả. 
- Nhưng anh sẽ ứng phó được như trước chứ, hải không anh? 
- Anh phải ứng phó. 
Xtas quả là đã ứng phó rất khá, nhưng chặng đường thứ năm này đòi hỏi phải chuẩn bị nhiều thứ. Bọn trẻ sẽ phải đi vào những vùng chưa ai biết đến, nơi có biết bao tai họa rình rập. Vì thế cậu bé muốn vũ trang tốt nhất để chống lại nhữ ng tai ương hơn hẳn so với nhữ ng chặng đường trước kia. Nhằm mục đích ấy, em tập cho bốn mươi chàng thanh niên Vahima bắn súng rêmingtơn, họ sẽ là lực lượng vũ trang chủ yếu và là đội cận vệ của Nen. Em không thể có được nhiều xạ thủ hơn, vì con King chỉ có thể chở được hai mươi lăm khẩu súng, còn lũ ngựa hơn mười lăm khẩu nữa. Phần còn lại của đội quân gồm một trăm người Vahima và một trăm người Xamburu được vũ trang bằng giáo và cung tên mà Pharu hứa sẽ cung cấp. Sự có mặt của những người này sẽ đẩy lùi mọi trở ngại trên đường đi qua vùng đất rộng mênh mông và rất hoang vắng, nơi những bộ lạc người Xamburu sinh sống. Xtas không khỏi tự hào khi nghĩ rằng, mặc dầu em chạy trốn dọc đường từ Phasôđa chỉ với Nen và hai đứa bé da đen, không có lấy một phương tiện sống nào cả, ấy vậy mà em vẫn có thể tiến được tới gần đại dương, dẫn theo hai trăm người có vũ trang với một thớt voi và một đàn ngựa. Em hình dung những điều người Anh sẽ bình phẩm về chuyện đó (họ đánh giá rất cao tính tháo vát), trước hết những iều cha em và ông Rôlixơn sẽ nói về em. Ý nghĩ đó khiến mọi khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. 
Tuy thế em vẫn không yên tâm về số phận của bản thân và của Nen. Được rồi, cứ cho là sẽ dễ dàng vượt qua vùng đất của người Vahima và người Xamburu sinh sống, nhưng rồi sao nữa? 
Chúng sẽ gặp những bộ lạc nào đây, sẽ đi vào vùng đất nào đây, bao nhiêu đường đất còn phải vượt? Những chỉdẫn của ông Linđe rất chung chung. Điều khiến Xtas lo ngại nhất là em không biết hiện nay mình đang ở nơi nào, vì trên bản đồ, phần này của Phi châu trông cứ như một mảnh giấy trắng vậ y. Em cũng không rõ hồ Baxxa Narốc là hồ nào, to nhỏ ra sao. Em đang ở mép phía Nam của hồ, nơi chiều rộng mặt nước ước chừng hơn chục cây số. Nhưng hồ này kéo dài bao xa về phía Bắc, cái đó không một ai có thể trả lời cho em, kể cả ngườ i Vahima, người Xamburu, lẫn Cali. Thằng bé vốn biết nói khá sõi tiếng Kixvahili, ấy thế mà để trả lời mọi câu hỏi của Xtas nó chỉ đáp lại vỏn vẻn có hai tiếng “'Bali! Bali”, có nghĩa là “Xa, xa lắm!” và đó là tất cả những gì Xtas có thể khai thác đượ c ở nó. 
Vì những rặng núi phía Bắc vây quanh đường chân trời có vẻ khá gần nên em cho rằng hẳn đây chỉ là một cái hồ trên núi nào đó, không rộng lắm, những hồ loại này có rất nhiều ở Phi châu. 
Vài năm sau em mới hiểu rằng em đã nhầm lẫn một cách tai hại1, tuy vậy, lúc này em không quan tâm đến việc tìm hiểu kĩ diện tích hồ Baxxa Narốc bằng việc tìm hiểu xem có con sông nào chảy từ hồ ra rồi sau đó đổ vào đại dương hay không. Những người Xamburudưới quyền của Pharu khẳng định rằng, phía Đông vùng đất của họ có một sa mạc lớn không một chút nước, chưa từng có ai vượt qua nổi. Vốn hiểu người da đen qua những lời thuật lại của các nhà thám hiểm, qua kinh nghiệm của ông Linđe và một phần qua kinh nghiệm của bản thân, Xtas biết rằng khi nào có những nỗi nguy hiểm và khó khăn, nhiều người trong bọn họ sẽ quay trở lại, và rất có thể bên em sẽ không còn lại một ai cả. Sẽ chỉ còn em, Nen, Mêa và cậu bé Nasibu giữa rừng thẳm cùng sa mạc mà thôi. 
Tuy nhiên, điều trước tiên, quan trọng nhất, là nếu thiếu nước thì đoàn người sẽ tán loạn ngay lập tức; chính vì thế em cố gắng dò hỏi về consông. Đi dọc theo bờ sông có thể tránh được nỗi khủng khiếp mà khách bộ hành thường gặp phải trong những vùng không có nước. 
Song những người Xamburu không nói cho em một điều gì chắc chắn, còn em không thể tự cho phép mình tiến hành một cuộc thăm dò dài ngàyvùng phía Đông bờ hồ, vì có bao việc khác giữ chân em lại ở Bôcô. Em cho rằng trong số tất cả những chiếc diều được thả từ núi Linđe và dọc đường đi từ các làng người da đen không một chiếc nào vượt qua được những đỉnh núi vây quanh hồ Baxxa Narốc, vì thế cần phải làm và thả thêm những chiếc diều mới, vì từ đây gió có thể mang chúng qua vùng sa mạc bằng phẳng, đi xa đến tận đại dương. Công việc này thì chính em phải có mặt để làm - bởi dẫu Nen biết dán diều rất lành nghề, còn Cali thì đã học được cách thả diều, nhưng không có ai trong hai đứa biết viết những điều cần thiết lên những chiếc diều đó cả. Xtas cho rằng đây là một việc cực kì quan trọng không thể lơ là được. 
Việc này chiếm nhiều thì giờ nên mãi ba tuần sau cả đoàn mới sẵn sàng để lên đường. Trong đêm trước ngày xuất phát, vị vua trẻ tuổi của người Vahima xuất hiện trước mặt Xtas, sau khi cúi chào thật thấp, Cali nói: 
- Cali sẽ đi cùng với ông lớn và cô bé đến con nước, nơi những cái thuyền lớn của người da trắng đi lại. 
Xtas rất xúc động trước biểu hiện này của tình gắn bó, nhưng em nghĩ rằng, em không có quyền mang cậu bé vào một cuộc hành trình xa xăm như thế, cuộc hành trình khó hẹn ngày về. 
- Sao cậu lại muốn đi cùng chúng tớ? - Em hỏi. 
- Cali yêu ông chủ và cô bé. 
Xtas đặt tay lên mái tóc quăn như len. 
- Mình biết, Cali ạ, cậu là một người rất trung thực và tốt bụng. Nhưng còn vương quốc của cậu thì sao, ai sẽ thay cậu trị vì người Vahima? 
- M'Tana, anh của mẹ Cali. 
Xtas vốn biết rằng, giữa người da đen cũng như giữa những người da trắng bao giờ cũng xảy ra việctranh giành quyền bính, và vương quyền bao giờ cũng đầy cám dỗ, nên em suy nghĩ một lúc rồi nói: 
- Không, Cali! Mình không thể mang cậu đi theo được. Cậu phải ở lại với người Vahima để dạy họ trở thành những người tốt. 
- Cali sẽ trở về với họ mà. 
- M'Tana có nhiều con trai, sẽ ra sao đây, nếu như bản thân ông ta muốn trở thành vua và truyền ngôi cho các con trai của mình, đồng thời xúi giục người Vahima đuổi cậu đi? 
- M'Tana là người tốt. Ông ta không làm thế đâu. 
- Nếu ông ta làm thì sao? 
- Thì Cali lại đến con nước lớn để tới với ông lớn và cô bé. 
- Chúng mình sẽ không còn ở đó nữa. 
- Thì Cali sẽ ngồi khóc trên bờ con nước vì buồn. 
Vừa nói, nó vừa đặt hai tay lên đầu, rồi lát sau nó thì thầm: 
- Cali rất yêu ông lớn và cô bé, rất nhiều! 
Rồi hai giọt lệ lớn long lanh trong mắt nó. Xtas ngần ngừ không biết nên làm thế nào. Em rất thương Cali nhưng không thể nào đồng ý ngay với lời thỉnh cầu của cậu bé. Em hiểu rằng, nếu M'Tana hoặc đám phù thủy cùng những người da đen nổi loạn, thì cậu bé bị đe dọa không những chỉbởi việc bị đuổi khỏi đất nước thôi, mà còn bởi cái chết nữa, chưa nói tới những nỗi nguy hiểm trên đường về. 
- Tốt hơn hết cho cậu là cậu hãy ở lại, - em bảo - tốt hơn rất nhiều. 
Song em đang nói thì Nen bước vào, qua bức mành mỏng ngăn giữa các phòng, cô bé đã nghe rõ câu chuyện, và giờ đây, khi nhìn thấy những giọt lệ trong mắt Cali, cô bé lấy ngón tay lau mắt cho nó, rồi quay lại phía Xtas. 
- Cali sẽ đi với chúng ta! - Cô bé nói rất quả quyết. 
- Ơ hay! - Xtas đáp vẻ hơi phật ý. - Điều đó không phụ thuộc vào em. 
- Cali sẽ đi với chúng ta! - Cô bé nhắc lại. 
- Hoặc không đi. 
Bỗng nhiên cô bé giậm chân: 
- Em muốn thế.Rồi chính cô bé cũng òa lên khóc nứ c nở. Xtas ngạc nhiên nhìn Nen, dường như không hiểu nổi có chuyện gì xảy ra với cái cô bé lúc nào cũng tốt bụng và dịu hiền này, nhưng khi trông thấy cô bé dụi hai nắm tay vào mắt, miệng hớp hớp không khí như chim non, em bèn vội kêu lên: 
- Cali sẽ đi với chúng ta! Sẽ đi! Sẽ đi! Sao em lại khóc? Cái đồ khó bảo ở đâu ấy. Nó sẽ đi! Nó làm tôi phát điên lên mất! Nó sẽ đi! 
Em nghe rõ chưa? 
Thế là mọi chuyện được quyết định. Xtas còn xấu hổ mãi tới chiều về sự yếu mềm của mình đối với Mdimu Tốt, còn Mdimu Tốt thì sau khi đã đạt được điều mong muốn của mình, lại trở nên lặng lẽ, hiền lành và vâng lời như mọi khi. 
---------------. 
1 Đây là một cái hồ rất lớn, được nhà thám hiểm nổi tiếng Têlêki phát hiện vào năm 1888 và đặt tên là hồ Ruđônphơ (chú thích của tác giả).



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 43

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Rạng sáng hôm sau cả đoàn lên đường. Cậu bé da đen sung sướng, còn cô bé chuyên quyền vẫn tiếp tục hiền dịu và vâng lời như thường lệ. Xtas tràn đầy nghị lực và hi vọng. Cù ng đi với bọn trẻ là một trăm người Vahima và một trăm người Xamburu, trong số những người Vahima có bốn mươi người được trang bị súng trường rêmingtơn mà họ mới biết sử dụng. Vị thủ lĩnh da trắng, người dạy họ tập bắn trong vòng ba tuần lễ, hiểu rằng khi có sự cố, hẳn là họ gây ra nhiều tiếng nổ hơn gây tác hại cho địch, nhưng em nghĩ rằng, khi chạm trán với những người mông muội, tiếng động đóng vai trò không ít quan trọng hơn so với đạn, vì vậy em rất hài lòng về đội cận vệ của mình. Họ mang theo thật nhiều sắn, những bánh sắn nướng lẫn với những con kiến trắng to, béo mẫm, được sấy thật khô. Cùng đi với đoàn người là hơn mười phụ nữ, họ mang theo nhiều thức ăn ngon cho Nen cùng những túi da linh dương đựng nước uống. Từ chỗ ngồi cao trên lưng voi, Xtas theo dõi trật tự, ra mệnh lệnh có thể không phải là do thật cần thiết, mà chủ yếu là do vai trò thủ lĩnh khiến em thích thú - và em tự hào nhìn toàn bộ đội quân của mình. 
“Giá như mình muốn, - em tự nhủ, - mình có thểở lại đây, trở thành vua của tất cả dân Đôcô, nhưông Bênhiốpxki1 ở đảo Mađagaxca vậy”. 
Trong óc em thoáng qua ý nghĩ không hiểu có nên quay trở lại đây vào một lúc nào đó, khai phá một vùng đất rộng lớn, khai hóa cho người da đen,mở mang ở nơi này một đất nước Ba Lan mới, hoặc khi nào đó, dẫn đầu những toán quân người da đen đã được tập luyện thật tốt, quay trở về nước Ba Lan cũ. Nhưng chính em cũng cảm thấy có cái gì đó thật buồn cười trong những ý nghĩ đó, em nghi ngờ không rõ cha em có cho phép em đóng vai Alécxanđrơ Maxêđoan tại Phi châu hay chăng, vì thế em không thể lộ những dự định ấy với Nen, cô bé hẳn là người duy nhất trên đời sẵn sàng vỗ tayhoan nghênh. 
Nhưng trước khi chiếm cứ miền đất Phi châu này, cầ n phải thoát ra khỏi đây cái đã, vì thế Xtasquay trở lại với những vấn đề thiết thân hơn. Đoàn người đi thành một hàng dài. Ngồi trên đầu voi, Xtas quyết định sẽ đi cuối hàng quân để có thể theo dõi mọi sự. 
Khi mọi người vượt qua, em không khỏi ngạc nhiên thấy cả hai tên phù thủy - M'Kunđe và M'Pua, chính những kẻ đã bị Cali đánh đòn, - cũng cùng đi với đoàn; những bọc hàng trên đầu chúng cũng lắc la lắc lư như nhữ ng người khác trên đường. 
Em bèn giữ chúng lại và hỏi: 
- Ai bảo các người đi? 
- Vua ạ! - Cả hai đáp lại vẻ nhẫn nhục và cúi chào. 
Nhưng dưới lớp vỏ cam chịu này, mắt chúng vẫn long lên dữ tợn, mặt chúng lộ rõ vẻ tức giận, nên ngay lúc đầu Xtas đã muốn đuổi chúng quay trở lại, nếu em không làm điều đó cũng chỉ vì để khỏi ảnh hưởng tới uy tín của Cali mà thôi. 
Nhưng em gọi ngay cậu bé lại. 
- Có phải chính cậu đã ra lệnh cho bọn phù thủy đi cùng với chúng ta không? - Em hỏi. 
- Cali ra lệnh, vì Cali là người thông minh. 
- Thế thì tớ hỏi lại một lần nữa, tại sao cái thông minh ấy lại không bắt chúng phải ở lại nhà? 
- Vì nếu như M'Kunđe và M'Pua ở lại, cả hai đứa sẽ xúi người Vahima giết Cali khi Cali quay trở về, còn nếu chúng đi với chúng ta, Cali sẽ trông thấy chúng và coi chừng chúng. 
Xtas nghĩ một lúc rồi bảo: 
- Có thể cậu có lí, nhưng hãy chú ý đến chúng cả đêm lẫn ngày, vì mắt chúng nhìn gian lắm. 
- Cali đã có sẵn roi tre đây rồi, - cậu bé da đen đáp. 
Đoàn người lên đường. Vào phút chót, Xtas ra lệnh cho toán cận vệ vũ trang bằng súng trườngrêmingtơn đi cuối cùng, vì đó là những người tin cẩn nhất được chính em lựa chọn. Trong những ngày luyện tập sử dụng vũ khí kéo dài khá lâu, họ đã phần nào gắn bó với vị thủ lĩnh trẻ tuổi củamình, đồng thời, được gần gũi với em, họ tự xem mình là những người tốt hơn những kẻ khác. Bây giờ, họ sẽ phải canh giữ cho cả đoàn và bắt những kẻ nào trong tương lai định trốn. Có thể thấy trước: khi những gian khó và nguy hiểm bắt đầu xuấthiện thì không thiếu chi những kẻ chạy trốn. 
Nhưng trong những ngày đầu tiên, mọi việc diễn ra thật tốt đẹp. Mang theo những kiện hàng trên đầu, mỗi người da đen được vũ trang bằng giáo và đòng - được gọi là axagai - đi thành một hàng dài giữa rừng hoang. Họ đi hồi lâu dọc theo bờ phía Nam của cái hồ trên vùng bằng phẳng. Nhưng vì hồ được vây bọc bốn chung quanh bởi những đỉnh núicao vòi vọi, nên khi rẽ về phía Đông, họ bắt đầu phải leo dần lên cao. Những cụ già Xamburu biết rõ miền này đều nói rằng đoàn người sẽ phải vượt qua những đèo cao giữa núi mà họ gọi tên là Cunla và Inrô, sau đó sẽ đi vào vùng đất Ebênê nằm ở phía Nam Bôrani. Xtas hiểu rằng không thể đi thẳngsang phía Đông được, em nhớ rõ là Mombaxa nằm ở phía Nam đường xích đạo, cách chừng vài vĩ độ, nghĩa là nằm rất xa cái hồ nọ về phía Nam. Có được mấy chiếc địa bàn thừa hưởng của ông Linđe, em hoàn toàn không còn sợ bị lạc đường nữa. 
Đêm đầu tiên họ dừng chân nghỉ trên một cao nguyên phủ đầy rừng. Khi bóng đêm về, mấy chục đống lửa chiếu sáng rực. 
Bên lửa, nhữ ng ngườ i da đen nướng thịt khô và ăn sắn, họ bốc thức ăn bằng tay. Rồi sau khi đã thỏa cơn đói khát, họ bắt đầu trò chuyện với nhau, xem bvana kubva dẫn họ đi đâu, họ sẽ được tặng những phần thưởng nào. Một số người ngồi bệt, vừa cời lửa vừa ca hát. Mọi người trò chuyện ồn ào đến nỗi rốt cuộc Xtas phải ra lệnh cho họ im lặng để Nen có thể chợp mắt. 
Đêm rất lạnh, nhưng sáng hôm sau, khi những tia mặt trời đầu tiên chiếu sáng trong vùng thì không khí lại trở nên ấm áp. 
Vào lúc rạng đông, những người bộ hành trẻ tuổi trông thấy một cảnh tượng kì lạ. Lúc bọn trẻ đang đi tới một cái hồ kéo dài chừng hai cây số, nói cho đúng hơn, là tới một vùng ngập nước do nước mưa đọng lại trong thung lũng, bỗng Xtas - đang ngồi cùng cô bé trên lưng con King - nhìn quanh bằng ống nhòm gọi to lên: 
- Nhìn kìa, Nen, voi đang đi uống nước kìa! 
Cách đó chừng nửa cây số có một đàn chừng năm con voi đang kéo nhau tiến lại gần hồ. 
- Những con voi này trông lạ lắm. - Xtas nói, em vẫn chăm chú quan sát những con vật này. - Chúng nhỏ hơn con King, tai nhỏ hơn nhiều và chẳng thấy ngà đâu cả. 
Trong khi đó đàn voi bước xuống nước, nhưng chú ng không dừng lại ở bên bờ như con King thường làm, cũng không dùng vòi phun nước, mà chúng lại đi thẳng về phía trước, mỗi lúc một ngập sâu hơn, rốt cuộc chỉ có cái sống lưng của chúng là nhô lên trên mặt nước, trông giống như những tảng đá vậy. 
- Gì thế kia? Chúng nó lặn à? - Xtas kêu lên. 
Đoàn người tiến lại gần hồ hơn nữa rồi dừng chân ngay trên bờ hồ. Xtas cho mọi người dừng lại và kinh ngạc nhìn Nen rồi lại nhìn xuống hồ. 
Gần như hoàn toàn không trông thấy đàn voi đâu nữa, trên mặt nước phẳng lặng, bằng mắt thường, chỉ có thể nhận thấy những cái gì đó như năm bông hoa màu đỏ nhô lên và lắc lư nhè nhẹ. 
- Chúng nó đứ ng dưới đáy hồ, còn kia là những cái đầu vòi của chúng. - Xtas kêu lên, không tin vào mắt mình nữa. 
Rồi em gọi Cali: 
- Cali! Cậu thấy không? 
- Có thấy, ông chủ à, Cali thấy, đó là những con voi nước(2). - Cậu bé da đen thản nhiên đáp. 
- Voi nước à? 
- Cali trông thấy chúng nhiều lần rồi. 
- Thế chúng nó sống trong nước ư? 
- Ban đêm chúng nó vào rừng ăn cỏ, còn banngày chúng ở dưới hồ, như hà mã. Sau lúc mặt trời lặn, chúng mới lên bờ. 
Xtas không hết ngạc nhiên, và giá như không phải lên đường gấp, em đã cho cả đoàn dừng lại đến chiều để quan sát thật kĩ những con vật kì lạ này. Nhưng em thoáng nghĩ rằng đàn voi có thể sẽ lặn sang phía bờ hồ bên kia, và dù cho chúng có lên bờ ở đâu đi chăng nữa, cũng khó lòng nhìn rõ chúng ban đêm. 
Thế là em đành ra lệnh xuất phát, nhưng dọc đường em bảo Nen: 
- Này, thế là chúng mình đã được trông thấy mộtthứ mà chưa người Âu nào trông thấy. Em biết anh nghĩ gì không? Nếu như chúng mình đến được đại dương yên lành, thì hẳn sẽ chẳng ai tin khi anh nói rằng ở Phi châu có loài voi nước. 
- Nếu chúng mình bắt được một con mang tớiđại dương thì sao? - Nen nói, cô bé lúc nào cũng tin là Xtas có thể làm được tất cả mọi chuyện. 
---------. 
1 Bênhiốpxki M.A. (1748 - 1785), quý tộc gốc Hung hoặc Xlôvácki. Bị đày đi Camsátca, ông chạy trốn. Sau đó phục vụ trong quân đội Pháp đánh chiếm Mađagaxca và trở thành thủ lĩnh ở đảo này. 
2 Phi châu còn biết bao bí ẩn chưa được nghiên cứu. Đã từ lâu tin đồn về loại voi nước vọng tới tai các nhà thám hiểm, nhưng người ta không muốn tin họ. Gần đây, Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên đã phái ông L.Petit đi, ông này đã trông thấy voi nướcCônggô tại hồ Lêôpôn. Tạp chí Kosmeos số 6 của Đức đã đăng tin này (Chú thích của tác giả).



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 44

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Mãi sau mười ngày đường, cả đoàn mới vượt qua được những ngọn đèo và đi vào một vùng đất hoàntoàn khác hẳn. Đó là một vùng bình nguyên rộng lớn, chỉ đôi nơi mới có những quả đồi gợn sóng nhô lên, nhưng đa số lại là những quả đồi dẹt phẳng. Giới thự c vật hoàn toàn thay đổi. Không còn thấy những cây gỗ lớn đứng một mình hay thành cụm vươn cao trên mặt cỏ gợn sóng nữa. Chỉ thảng hoặc mới nhô lên những cây xiêm gai cho nhựa, vỏ màu trai ngọc, có dáng ô, nhưng lá rất thưa thớt, ít bóngmát vừa mọc cách xa nhau. Đây đó, giữa những tổ mối là những cây xương khô vươn thẳng lên trời, với những cành cây trông giống như các giá cắm nến. Lũ diều hâu quay lượn trên trời cao, còn bên dưới, bay từ cây xiêm gai này sang cây nọ là những con chim thuộc họ quạ, lông màu đen lẫn trắng. Cỏ màu vàng khè, mọc thành từng búi trông cứ như lúa hắc mạch chín. Tuy vậy, đồng hoang khô cằn này hẳn là vẫn cung cấp đầy đủ thức ăn cho một lượng thú rừng rất đông đảo, vì cứ mỗi ngày vài lần, các vị khách bộ hành lại trông thấy những đàn linh dương gơnu, linh dương rừng móc và nhất là ngựa vằn. Trên vùng bình nguyên mênh mông không có bóng cây, cái nắng thật khó chịu đựng nổi. Trời không một gợn mây, ban ngày nóng nực, ban đêm cũng chẳng mang lại được mấy nỗi nghỉ ngơi. 
Càng ngày, chuyến đi càng trở nên khó nhọc hơn. Trong những bản làng mà đoàn gặp được, thổ dân rất mực hoang dã đón tiếp đoàn một cách sợ hãi và miễn cưỡng, và nếu như không có một số khá đông những người phu khuân vác có vũ trang, nếu như không có bóng dáng những khuôn mặt da trắng cũng như con King và con Xaba, thì hẳn là các vị khách bộ hành gặp phải không ít nỗi nguy hiểm. 
Nhờ Cali, Xtas biết được rằng tiếp sau đó sẽ không có bản làng nào nữa và vùng đất sẽ hoàn toàn không có nước. Thật khó mà tin điều đó vì những đàn thú đông đảo mà người ta gặp được phải có nơi nào đó để uống nước chứ. Tuy nhiên, câu chuyện về những vùng sa mạc, trên đó không hề có lấy một con sông, một vũng nước nào khiến cho những người da đen hoảng sợ, họ bắt đầu trốn dần đi. Hai tên M'Kunđe và M'Pua làm gương đầu tiên. May thay, người ta sớm nhận ra cuộc chạy trốn của chúng, và những người dùng ngựa đuổi theo đã tóm được chúng cách trại không xa lắm. Khi người ta giải chúng về, Cali đã dùng hèo tre chứng minh cho chúng thấy sự tội lỗi trong hà nh động của chúng. Họp tất cả những người phu mang hành lí lại, Xtas nói chuyện với họ, bài nói được chàng thanh niên da đen dịch sang thứ thổ ngữ của địa phương. Nhân việc ở chỗ trú đêm hôm trước lũ sư tử gầm thét suốt đêm chung quanh trại, Xtas cố gắng chứ ng minh cho những người của em thấy rằng, kẻ nào chạy trốn sẽ trở thành mồi của sư tử ngay lập tức, thậm chí nếu như kẻ đó có ngủ đêm trên những cây xiêm gai đi chăng nữa, thì hắn sẽ gặp những con vôbô còn kinh khủng hơn nhiều. Sau đó em nói rằng nơi nào có linh dương sinh sống, nơi đó nhất định phải có nước, còn nếu như trên đường đi tiếp, họ gặp phải vùng đất hoàn toàn không có nước, thì họ vẫn có thể mang theo một lượng nước đủ dùng cho hai ba ngày đường trong các túi da linh dương khâu lại cơ mà. Nghe em nói, những người da đen chốc chốclại bảo nhau: “Mẹ ơi! Đúng quá đi mất!”, nhưng đêm hôm sau lại vẫn có thêm năm người Xamburu cùng hai người Vahima nữa bỏ trốn, rồi cứ mỗi đêm lại có thêm những kẻ khác bỏ đi. 
Tuy nhiên, M'Kunđe và M'Pua không thử tìm may mắn lần thứ hai, vì lí do đơn giản là hàng ngày, sau lúc mặt trời lặn, Cali ra lệnh trói bọn chúng lại. 
Vùng đất mỗi lúc một trở nên khô cằn hơn và mặt trời càng ngày càng thiêu đốt đồng hoang dữ dội hơn. Thậm chí không còn trông thấy cả những cây xiêm gai nữa. Những đàn linh dương vẫn thường xuyên xuất hiện, nhưng mỗi ngày một ít hơn. Lũ lừa và ngựa vẫn còn tìm đủ thức ăn, vì bên dưới lớp cỏ cao bị khô héo, tại nhiều chỗ thấp vẫn còn tiềm trữ những loại cỏ thấp, xanh sẫm hơn và ít bị khô hơn. Song con King thì gầy sụt đi, mặc dù nó chẳng hề kén chọn gì cả. Khi gặp những cây xiêm gai, nó dùng đầu bẻ gẫy cả cây rồi chén sạch cả lá lẫn những đọt cây không từ cả những lá già năm ngoái. Cho đến nay, hàng ngày đoàn người vẫn gặp được nơi có nước, nhưng thường thường là nước đục cần phải lọc hoặc là nước mặn hoàn toàn không thể nào uống nổi. Rồi tiếp đó, có vài lần những người do Cali chỉ huy được Xtas cử đi tiền trạm không tìm thấy một vũng nước hay một nguồn khe ẩn kín nào cả, và Cali đành thưa với Xtas bằng nét mặt đầy buồn phiền: không có nước. 
Xtas hiểu rằng cuộc hành trình cuối cùng này hoàn toàn không dễ dàng hơn những giai đoạn trước, em bắt đầu lo lắng cho Nen, vì ngay cả cô bé cũng có những thay đổi. Khuôn mặt cô bé, thay vì bị rám màu nắng gió, mỗi ngày một trở nên nhợt nhạt hơn, mắt mất vẻ long lanh. Trên vùng đồng bằng khô cằn không có muỗi, không bị bệnh sốt rét đe dọa, nhưng rõ ràng là cái nóng đã làm tiêu hao sức khỏe của cô bé. Xtas thương xót và lo lắng nhìn những bàn tay nhỏ bé đang trắng bệch như giấy của cô, và em cay đắng trách mình đã để phí mất quá nhiều thời gian vào việc tập bắn súng cho những người da đen, khiến cô bé phải đi trong tiết nóng bức thế này. 
Ngày nối ngày trôi qua trong những nỗi lo như thế. Mặt trời càng ngày càng hút kiệt hơi ẩm và sức sống trên trái đất một cách thèm khát và ác độc hơn. Cỏ khô khốc quắt queo hẳn lại và khô tới mức gãy vụn dưới gót chân những đàn linh dương, mỗi đàn dù chẳng đông mấy chạy qua cũ ng làm bốc lên những đám bụi mù mịt. Tuy nhiên, những người bộ hành của chúng ta cũng gặp được một con sông nhỏ, họ nhận ra ngay từ xa nhờ những hàng cây mọc trên hai bờ sông. Những người da đen vội đua nhau chạy tới những hàng cây, và khi tới được bờ sông, họ bắc cầu, rồi nhúng ngập đầu xuống nước uống ừng ực cho tới khi một con cá sấu đớp lấy tay một người trong bọn mới thôi. Những người khác vội lao tới cứu bạn và trong nháy mắt đã lôi con “thằn lằn” khủng khiếp này lên bờ, song nó vẫn không chịu nhả cái tay của người bị nạn ra, mặc dù người ta đã dùng dao và giáo nậy hàm nó. Mãi đến lúc con King đặt chân lên mình con vật và chà vụn nó dễ như một cái nấm mủn thì mọi chuyện mới kết thúc. 
Khi rốt cuộc mọi người đã thỏa cơn khát, Xtas ra lệnh quây hàng rào cọc tre thành hình tròn tại một chỗ nước nông, chỉ chừa một lối vào từ phía bờ sông để Nen có thể hoàn toàn an toàn tắm cho thoải mái. Em còn bố trí con King ở ngay lối cửa vào.Được tắm táp, cô bé tỉnh cả người, và sau khi nghỉ ngơi, sức lực của cô bé hồi lại phần nào. 
Cả đoàn cũng như Nen rất sung sướng khi bvana kubva quyết định cho họ được dừng chân haingày cạnh sông. Được tin ấy, mọi người tươi tỉnh hẳn lên và quên đi những nỗi nhọc nhằn vừa trải qua. Sau khi đã được ngủ đẫy giấc và ăn uống no nê, một số người da đen bắt đầu thơ thẩn trong những hàng cây mọc trên bờ sông tìm những quả chà là dại và những quả cây được mệnh danh là “nước mắt Hiốp” mà người ta dùng làm tràng hạt. 
Trước khi mặt trời lặn, mấy người trong bọn họ quay trở về trại mang theo những vật hình vuông màu trắng mà Xtas nhận ra ngay rằng đó là những cánh diều củ a chính em. 
Một trong những chiếc diều đó mang số 7, nghĩa là nó được thả lên từ núi Linđe, nơi bọn trẻ thả tới hàng mấy chục chiếc. Xtas rất mừng và thêm phấn chấn vì chuyện này. 
- Anh không nghĩ rằng, - em nói với Nen, - diều lại có thể bay xa đến thế. Anh cứ tưởng chúng sẽ vướng lại trên các đỉnh của dãy Caramôiô chứ. Bây giờ thì hóa ra gió có thể mang được diều đến nơi nào nó muốn, anh hi vọng rằng những chiếc diều chúng mình thả lên từ những ngọn núi vây quanh hồ Baxxa Narốc cũng như thả dọc đường sẽ bay được tới đại dương. 
- Thế nào chúng cũng bay tới, - Nen đáp. 
- Cầu Chúa cho được như thế! - Cậu bé nói, và nghĩ tới những nỗi nguy hiểm và khó khăn của chặng đường phía trước. 
Ngày thứ ba đoàn người rời khỏi sông, sau khi đã lấy theo thật nhiều nước dự trữ trong những túi da. Trước khi hoàng hôn xuống, họ đi vào một vùng bị mặt trời thiêu đốt, nơi không có cả cây xiêm gai, một đôi chỗ mặt đất trần trụi như nện vậy. Chỉ thỉnh thoảng mới có một bụi lạc tiên có thân ngầm trong đất, trông giống như những quả bí khổng lồ, có đường kính tới hai thước ta. Từ những cái củ khổng lồ ấy mọc ra những sợi dây leo mảnh mai, lan ra trên mặt đất chiếm một khoảng không gian thật to lớn, tạo thành những bụi rậm rạp đến nỗi chuột cũng khó lòng rúc qua nổi. 
Tuy vậy, mặc dù loài thực vật này có màu xanh non ngon lành, trônggiống như màu cây gai châu Âu, song chúng lại có không biết cơ man nào là gai nhọn, đến nỗi cả con King lẫn bọn ngựa cũng không sao xơi nổi. Riêng chú lừa là còn nhấm nháp được chút đỉnh, nhưng cũng rất thận trọng. 
Còn bình thường, trong phạm vi vài dặm Anh, không hề trông thấy một thứ gì khác ngoài một loại cỏ cứng ngắn ngủn và một loài cây thân cỏ rất thấp trông từa tựa như cây trường sinh; loài cây này gãy vụn khi bị động vào. Sau chặng nghỉ đêm đầu tiên, cả ngày hôm sau, lửa trút từ trời cao xuống đất. Không khí run rẩy giống như trên sa mạc Libi. Trời không một gợn mây. Mặt đất tràn ngập ánh sáng, khiến cho mọi vật đều có màu trắng, không nghe thấy một tiếng động nào, thậm chí cả tiếng côn trùng, trong cái im lặng chết chóc đầy ánh sáng khó chịu này. 
Mọi người đẫm mồ hôi. Thỉnh thoảng họ phải dồn đống những súc thịt khô và khiên lại để tìm một chút bóng mát. Xtas ra lệnh phải tiết kiệm nước, những người da đen cũng giống như trẻ con vậy, họ hoàn toàn không hề lo nghĩ gì tới ngày mai. Cuối cùng, đành phải dù ng lính canh giữ những người mang túi nước, và phân phát khẩu phần nước cho từng người. Chính Cali tự làm việc đó một cách rất công minh, nhưng chuyện ấy mất rất nhiều thì giờ, làm chậm trễ tốc độ hành quân, điều đó cũng có nghĩa là chậm tới được những nguồn nước mới. Thêm vào đó, những người Xamburu kêu ca rằng người Vahima được chia nhiều nước uống hơn, còn người Vahima lại kêu người Xamburu. Người Xamburu đòi quay trở lại, song, Xtas tuyên bố rằng vua Pharu sẽ ra lệnh chặt đầu họ, còn bản thân em cũng ra lệnh cho những xạ thủ được trang bị súng trường rêmingtơn của mình không cho phép một ai bỏ đi cả. 
Đêm thứ hai họ gặp trúng chỗ đất trần trụi. Họ không làm bôma - hay hàng rào deriba như người ta thường gọi ở Xuđan - vì không có gì để làm cả.King và Xaba trở thành lính canh trạ i. Đó là những lính canh đủ tin cậy, nhưng vì được uống nước mười lần ít hơn lượng cần thiết, nên con King rống lên cho đến tận rạng đông, còn con Xaba thì thè lưỡi nhìn Xtas và Nen với lời khẩn cầu câm lặng, xin hãy thí thêm cho nó dù chỉ là một giọt nước. Cô bé muốn Xtas cho nó một ít nước trong cái bình đựng nước bằng cao su được thừa hưởng của ông Linđe mà em đeo bằng một sợi dây ở vai, nhưng cậu bé từ chối, vì em giữ gìn chút nước này cho Nen, dành cho những giờ đen tối nhất. 
Đến chiều thứ tư thì chỉ còn lại có năm túi nước không lớn lắm, nghĩa là mỗi đầu người chỉ còn lại được không đầy nửa chén. 
Và vì rằng dù sao ban đêm cũng mát hơn ban ngày, khiến cơn khát đỡ giày vò hành hạ người ta hơn là dưới ánh mặt trời gay gắt, hơn nữa buổi sáng mọi người cũng đã được chia chút ít nước, nên Xtas ra lệnh dành những túi nước này sang ngày hôm sau. Những người da đen lao xao phản đối mệnh lệnh này, nhưng nỗi sợ hãi đối với Xtas hãy còn khá lớn, nên họ không dám lao vào chỗ nước dự trữ ít ỏi cuối cùng ấy, nhất là khi bên cạnh đó đang có người cầm súng rêmingtơn đứng canh; những người này được thay gác từng giờ một. 
Để đánh lừa cơn khát, những người Vahima và Xamburu đành vặt những cuộng cỏ khô cằn, nhai lõi của chúng, song trong cỏ cũng gần như không còn chút hơi ẩm nào, vì mặt trời đã hút cạn hơi ẩm ngay cả của những tầng đất sâu1. 
Mặc dù không dập tắt được cơn khát, nhưng ít nhất thì giấc ngủ cũng cho phép tạm quên đi, nên khi đêm về, những người mệt nhọc và kiệt sức sau cả ngày đi đường ngủ như chết. Xtas cũng thiếp đi, nhưng trong lòng em đang có quá nhiều lo nghĩ và dằn vặt nên không sao ngủ yên và lâu được. Vài giờ sau, em tỉnh giấc và bắt đầu suy nghĩ về những chuyện sẽ đến, làm sao kiế m được nước uống cho Nen cùng cả đoàn, kể cả người lẫn vật? Tình thế thật nghiêm trọng, thậm chí có thể nói: thật kinh khủng, nhưng vốn tháo vát, cậu bé vẫn không chịu ngã lòng. Em bắt đầu nhớ lại tất cả những sự kiện diễn ra từ khi chúng bị bắt cóc ở Phaium cho tới lúc này: chuyến đi dài đằng đẵng đầu tiên vượt sa mạc Xahara, bão cát trong sa mạc, những lần định chạy trốn, Kháctum, Mahơđi, Phasôđa, thoát khỏi tay Ghebơrơ, rồi chặ ng đường tiếp theo đó đến khi ông Linđe chết, cho tới tận hồ Baxxa Narốc và mãi đến chỗ mà bọn trẻ đang trú đêm hiện nay. “Ta đã vượt qua biết bao chuyện, đã chịu đựng biết bao điều”, - em tự nhủ, - “biết bao lần ta tưởng chừng mọi sự đi đứt rồi và không còn lối thoát nào nữa, ấy vậy mà Chúa vẫn trợ giúp và bao giờ ta cũng tìm ra lối thoát. Thật khó tưởng tượng là ta đã vượt qua ngần ấy chặng đường, ngần ấy hiểm nguy để rồi phải chết trong chặng đường cuối cùng này! Bây giờ hãy đang còn một ít nước, và vùng này đâu phải là Xahara, vì nếu như thế thật thì hẳn là người ta phải biết điều đó chứ!” Song, thật ra niềm hi vọng của em còn được duy trì bởi vì qua ống nhòm về ban ngày em nhìn thấy ở phía Nam dường như có dạng của một dãy núi mờ mờ, có thể cách chúng còn chừng trăm dặm Anh nữa, cũng có thể xa hơn. Nhưng nếu như đến được nơi đó thì chúng sẽ thoát chết, vì ít khi vùng núi lại không có nước. Cần phải mất bao nhiêu lâu để đến được, cái đó em không biết, điều ấy còn phụ thuộc vào độ cao của núi. Trong làn không khí trong suốt như không khí Phi châu này, những đỉnh núi cao có thể nhìn thấy được từ rất xa, nghĩa là cần phải tìm ra nước trước khi tới đó. Nếu không thì chết hết. 
“Nhất định phải thế!” - Xtas tự nhắc mình. 
Tiếng thở dài đứt đoạn của con ngựa đang cố sức tống ra khỏi phổi cái nhức nhối của cơn khát chốc chốc lại cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu bé. Nhưng lúc sau, em như nghe thấy có tiếng gì đó tựanhư tiếng rên rỉ từ một phía khác của trại, chính từ phía mà những bao nước được phủ cỏ qua đêm. 
Vì tiếng rên lặp đi lặp lại mấy lần liền, nên cậu bé đứng dậy để xem có chuyện gì xảy ra. Em bước vềphía bụi cây mọc cá ch lều chừng vài mươi bướcchân. Đêm sáng vằng vặc, nên từ xa đã có thể trông thấy hai bóng người màu đen thẫm nằm cạnh nhau và hai khẩu rêmingtơn lóe sáng trong ánh trăng. 
“Người da đen bao giờ cũng thế, - em nghĩ thầm, - phải canh nước, thứ quý giá nhất đối với chúng tahiện giờ, ấy thế mà họ lại ngủ khì cả hai, cứ như đang nằm trong căn lều của họ vậy. A! Ngày mai thì hẳn là cái hèo tre của Cali lại có việc làm đây!”. 
Nghĩ thế, em tiến lại gần và lấy chân lay lay một trong hai người lính canh, nhưng lập tức em lùi lại, kinh hoàng. 
Người da đen có vẻ đang ngủ kia nằm ngửa với một con dao cắm ngập tận chuôi vào cổ họng, cạnh đó là người thứ hai, với cái cổ cũng bị cắt ngang khủng khiếp đến nỗi đầu gần như rời hẳn khỏi thân mình. 
Hai túi nước biến mất, ba túi khác bị phanh thủng và bẹp dí, nằm giữa đám cỏ bị vứt ngổn ngang. 
Xtas cảm thấy tóc em dựng ngược cả lên. 
----------. 
1 Về những vùng bình nguyên không có nước tại miền này xin bạn đọc hãy xem quyển sách tuyệt hay của linh mục Le Roy, giám mục xứ Gabon nhan đề Kilima - Njoro (Chú thích của tác giả).



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 45

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Nghe thấy tiếng kêu của em, Cali chạy lại đầu tiên, theo sau là hai người xạ thủ trước đó vừa được thay gác, rồi lát sau tất cả những người Vahima và Xamburu tụ tập lại, vừa hò hét vừa hú lên tại nơi xảy ra vụ án mạng. Lộn xộn, đầy nhữ ng tiếng kêu và kinh hoàng. Người ta quan tâm không mấy đến những người bị giết và đến chuyện giết người, mà quan tâm nhiều hơn tới những giọt nước cuối cùng đã bị ngấm sạch vào nền đất bỏng cháy của hoang mạc. Một số người da đen bò ngoài ra đất, dùng tay vốc từng vốc đất lên, cố hít lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Những người khác kêu la ỏm tỏi rằng chính cái ma ác đã giết chết những người lính canh và phanh thủng các túi nước. Nhưng Xtas và Cali biết rõ nên hiểu chuyện ấy ra sao. Chính M'Kunđe và M'Pua không có mặt trong số những người đang gào thét quanh bụi cỏ. Trong chuyện vừa xảy ra có cái gì đó lớn hơn là một vụ giết hai người lính canh và đánh cắp hai túi nước. Việc băm nát những túi nước còn lại chứng tỏ đó là một hành động báo thù, đồng thời là cái án tử hình cả đoàn. Những tên tín đồ của Mdimu Ác đã báo thù những người tốt. Những tên phù thủy trả thù vị vua trẻ, người đã phanh phui chuyện lừa lọc của chúng và không cho phép chúng được tiếp tục bóc lột những người Vahima lâu hơn nữa. Giờ đây, đôi cánh của tử thần đang chao lượn trên đầu cả đoàn, như những cánh diều hâu lượn trên đàn bồ câu. 
Cali chợt nhớ lại một cách quá muộn màng rằng vì đang có nhiều lo nghĩ và bận những việc khác nên đã quên không ra lệnh trói những tên phù thủy này lại, như vẫn làm từ khi chúng định chạy trốn đến nay. Cũng rõ ràng là, do tính cẩu thả bẩm sinh của người da đen, hai lính canh đã đặt lưng và ngủ thiếp đi. Chính điều đó đã khiến cho công việc của lũ đểu cáng được dễ dàng và khiến chúng trốn thoát mà không bị xử tội. 
Cũng phải mất khối thì giờ thì sự lộn xộn mới lắng đi chút ít và mọi người mới thoát khỏi cơn bàng hoàng, tuy vậy, bọn tội phạm chắc là vẫn chưa đi được xa, vì đất chỗ những tú i nước bị rách hãy còn ẩm và máu chảy từ thây hai người bị giết vẫn chưa đông hẳn. Xtas ra lệnh đuổi theo hai tên chạy trốn, không những chỉ để nhằm trừng trị chúng mà còn để đoạt lại hai túi nước cuối cùng. Cali lên ngựa, dẫn hai mươi tay súng đuổi theo. Thoạt tiên Xtas cũng muốn tham gia vào việc đuổi bắt, nhưng em nghĩ là không thể để Nen ở lại một mình trong cơn phẫn nộ và trong trạng thái kích động của những người da đen, nên em ở lại. Em chỉ bảo Cali mang con Xaba theo. 
Em ở lại vì e sẽ có cuộc nổi loạn, đặc biệt là về phía những người Xamburu. Nhưng em nhầm. Nói chung người da đen dễ nổi khùng, đôi khi vì những chuyện không đâu, nhưng một khi có một nỗi bất hạnh lớn nào đó đổ xuống đầu họ, nhất là khi cánh tay không khoan nhượng của tử thần chạm tới họ, thì họ đành thúc thủ, không chỉ riêng những người được đạo Hồi dạy rằng chống lại định mệnh là vô ích, mà hết thảy mọi người đều như thế. Khi đó cả nỗi sợ hãi lẫn sự dày vò của những phút giây cuối cùng cũng không làm họ thức tỉnh khỏi cơn bải hoải xuôi tay. Bây giờ đây cũng vậy. Khi sự bùng nổ ban đầu đã qua đi, khi cái ý nghĩ rằng sẽ phải chết đã hằn sâu vào đầu óc họ, thì cả những người Xamburu lẫn những người Vahima đều lặng lẽ nằm lăn ra đất chờ chết, vì vậy có lẽ không cần phải lo họ nổi loạn, mà có lẽ nên lo ngày mai họ có chịu nhổm dậy đi tiếp hay không. Khi nhận ra điều đó, Xtas cảm thấy rất thương họ. 
Trước khi mặt trời mọc, Cali đã quay trở về và đặt trước mặt Xtas hai cái bao đã bị cào xé rách nát, trong đó không còn lấy một giọt nước nào cả. 
- Ông lớn, - nó nói, - hết nước rồi!Xtas đưa tay lên cái trán đẫm mồ hôi rồi hỏi:
- Thế còn M'Kunđe và M'Pua? 
- M'Kunđe và M'Pua chết rồi. - Cali đáp. 
- Cậu ra lệnh giết chúng à? 
- Sư tử hoặc vôbô đã giết chúng. 
Rồi nó bắt đầu thuật lại chuyện xảy ra. Họ tìm thấy xác của hai tên tội phạm cách trại khá xa, tại chỗ chúng bị tử thần bắt gặp. Cả hai đều nằm cạnh nhau, cả hai đều có cái sọ bị vỡ nát đằng sau gáy, cánh tay bị cào xé và tấm lưng bị gặm dở dang. Cali cho rằng sư tử hoặc vôbô hiện ra trước mặt bọn chúng trong ánh trăng, thì cả hai liền nằm úp sấp mặt xuống và van xin chúng tha chết cho. Nhưng con thú dữ tợn đã giết cả hai, rồi sau khi cơn đói đã qua, nó ngửi thấy hơi nước liền xé nát các túi đựng nước. 
- Chính Chúa đã trừng phạt chúng. - Xtas nói. Người Vahima nên biết rằng Mdimu Ác không thể cứu nổi bất cứ kẻ nào. 
Cali lặp lại: 
- Chúa đã trừng phạt chúng, nhưng chúng ta không có nước. 
- Phía xa xa trước mặt tớ trông thấy những rặng núi về phía Đông. Ở đó chắc chắn có nước. 
- Cali cũng trông thấy núi, nhưng nhiều nhiều ngày đường mới tới nơi được. .. Im lặng. 
- Ông chủ, - Cali cất tiếng nói. - Xin Mdimu Tốt hãy... xin cô bé hãy cầu Linh thần vĩ đại cho một con sông hay một trận mưa. 
Xtas không nói gì hết và bỏ đi. Em trông thấy hình bóng màu trắng của Nen đang đứng trước lều. Tiếng kêu thét và tiếng hú của những người da đen đã đánh thức cô bé dậy từ nãy. 
- Có chuyện gì thế, anh Xtas? 
Cậu bé đặt tay lên đầu Nen và nói nghiêm trang: 
- Nen, hãy cầu Chúa xin nước, nếu không tất cả chúng ta sẽ chết. 
Thế là cô bé bèn ngước khuôn mặt nhợt nhạt của mình lên trời và nhìn dán mắt vào vầng trăng bạc,bắt đầu cầu xin Đấng tối cao, ngườ i đã đưa đẩy những chòm sao trên bầu trời và đã quạt gió vào lông cừu trên mặt đất, hãy cứu vớt. 
Sau một đêm mất ngủ, ồn ào và không yên tĩnh, mặt trời bỗng nhô lên sau đường chân trời một cách bất thần, như thường khi vẫn vọt lên trong vùng nhiệt đới, một ngày ngập tràn ánh sáng bắt đầu. Trên ngọn cỏ không có lấy một giọt sương, trên bầu trời không một gợn mây. Xtas ra lệnh cho các xạ thủ tập trung mọi người lại và nói chuyện với họ một lúc. Em nói với họ rằng không thể quay lại con sông đã qua nữa, vì chính họ cũng biết rõ rằng nó nằm cách đó năm ngày đêm đường. Nhưng không một ai biết rằng liệu phía đối diện có nước hay không. Rất có thể là ở cách đây không xa có một nguồn suối nào đấy, một con sông hay một vũng nước. Tuy không thấy cỏ, cây cối gì, nhưng thường thường, trên những vùng đồng bằng trống trải, nơi gió mang vung vãi hạt giống đi xa, cây cối cũng không thể mọc được, ngay cả bên cạnh nước. 
Hôm qua họ đã trông thấy mấy con linh dương rất to cùng mấy con đà điểu chạy về phía đông, đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng phía ấy hẳn phải có một nguồn nước nào đó. Vậy thì, những ai không phải là kẻ ngu ngốc, những ai trong ngực có trái tim không phải của loài thỏ mà là trái tim của sư tử và trâu rừ ng, người ấy hãy tiếp tục đi về phía trước, dù là đang khát khô cổ và mệt mỏi, chứ không chịu nằm lại để chờ lũ diề u hâu hay linh cẩu tới. 
Vừa nói thế, em vừa đưa tay chỉ những con diều hâu đang quần những vòng u ám trên đầu đoàn người. Sau những lời của Xtas, tất cả những người Vahima được Cali ra lệnh đều đứng cả dậy. Vì vốn đã quen tuân phục quyền lực hà khắc của nhà vua, họ không dám cưỡng lại. Nhưng nhiều người Xamburu không muốn đứng dậy, vì vua của họ là Pharu đã ở lại tại vùng hồ. Những người này bảo nhau: “Tại sao chúng ta lại phải đi đón cái chết khi mà tự nó cũng sẽ đến với chúng ta?” Thế là đoàn người tiếp tục tiến lên, giảm đi gần một nửa, và ngay lúc mới lên đường đã rơi vào nỗi mệt nhọc. 
Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ người ta không có lấy một giọt nước nào trong cổ họng, cũng không có lấy một chất lỏng nào khác. Ngay cả trong những điều kiện khí hậu mát mẻ hơn, thì khi lao động, chuyện đó cũng đã là chuyện khó chịu đựng nổi, huống hồ trong cái lò lửa Phi châu nóng bỏng này, nơi ngay cả những người được uống nước thỏa thuê cũng bị tháo mồ hôi nhanh đến nỗi họ có thể dùng tay vớt lại nước toát ra khỏi da mình ngay vào lúc đang uống. Cũng có thể thấy trước được rằng, nhiều người sẽ nằm xuống dọc đường vì kiệt sức và vì bị say nắng. Xtas cố gắng hết sức bảo vệ Nen khỏi bị mặt trời thiêu đốt và không cho phép cô bé được ló người ra khỏi cá i bành lấy một phút nào, cái bành mà trên nóc em đã dùng một tấm lụa trắng làm thành hai lớp để che. 
Dùng chút nước còn lại trong cái bình cao su, em nấu lên pha chè thật đặc, để nguội đi và đưa cho Nen, không pha đường, vì vị ngọt khiến cho cái khá t tăng thêm. Cô bé rơi lệ van xin em hãy cùng uống, nên em bèn đặt cái bình lên miệng - trong bình chỉ còn lại chừng vài chén nước - rồi động đậy cổ họng giả vờ uống. Lúc cảm thấyvị hơi ẩm trên môi, em tưởng như trong bụng và ngực đang có lửa cháy, và nếu như không dập tắt ngọn lửa ấy thì em sẽ gục xuống chết ngay lập tức. Trong mắt em quay cuồng những đốm màu đỏ, em cảm thấy trong hai hàm răng nhói lên nỗi đau khủng khiếp, dường như có ai đang cắm vào đó hàng ngàn chiếc kim. Tay em run đến nỗi suýt đánh đổ nhữ ng giọt nước cuối cùng ấy. Tuy vậy, em chỉ dùng lưỡi hớp lấy hai ba giọt, còn lại, em dành cho Nen. 
Lại một ngày đầy khổ sở và khó nhọc nữa trôi qua, đêm đến, may thay, trời lại mát mẻ hơn. Song sáng ngày hôm sau trời lại vô cùng nóng nực. Không một hơi gió thoảng. Mặt trời như một vị hung thần trút lửa xuống thiêu đốt mặt đất khô rang. Thậm chí không thấy một cây xương khô nào cả, chỉ có một vùng bình nguyên khô cháy, trống trải, phủ đầy những bụi cỏ xám xịt, cùng những cây thạch thảo khô khốc. Chỉ thỉnh thoảng ở tận phía xa xa vang lên những tiếng sấm nhè nhẹ, nhưng trong khi bầu trời đang nắng chang chang, những tiếng sấm ấy không báo hiệu mưa, chỉ báo nắng hạn đang kéo dài mà thôi. 
Lúc gần trưa, khi trời nóng nực kinh khủng hơn cả, cần phải dừng lại nghỉ ngơi. Cả đoàn rải ra nghỉ trong im lặng nặng nề. 
Kiểm lại thấy một con ngựa bị chết và hơn mười người phu khuân vác nằm lại dọc đường. Ngay cả lúc nghỉ ngơi, không một ai nghĩ đến chuyện ăn. Mắt mọi người hõm sâu, môi nứt nẻ với những cục máu khô đọng lại. Nen thở hổn hển như một con chim. Xtas bèn đưa cái bình cao su cho Nen và kêu lên: “Anh uống rồi! Anh uống rồi!”, rồi em vội chạy trốn sang đầu kia của trại, vì sợ rằng nếu ở lại thì em có thể lấy lại bình nước hoặc sẽ đòi Nen chia nước cho mình chăng. Và đó có thể là hành động dũng cảm nhất của em trong suốt cuộc hành trình. Bản thân em đang khốn khổ vì chịu đựng. Những đốm lửa đỏ quay lượn trước mắt em liên tục. Em cảm thấy hai hàm dính chặt với nhau, đến nỗi há ra ngậm vào đều khô. 
Cổ họng em khô khốc, cháy bỏng, không có một ít nướ c bọtnào trong miệng, lưỡi cứ ng đờ như bằng gỗ. Ấy thế mà đối với em cũng như cả đoàn, đây mới chỉ là bước đầu của những nỗi cực hình. 
Nhữ ng tiếng sấm báo hạn cứ rền khan ở chântrời. Khoảng ba giờ chiều, khi mặt trời đã ngả vềtây, Xtas ra lệnh cho cả đoàn đứng dậy, rồi dẫn đầucả đoàn tiếp tục tiến về phía đông. Nhưng bây giờđây chỉ còn chừng bảy chục người đi cùng với em, song chốc chốc lại có một người ngã vật xuống bêngói hàng của mình để không bao giờ đứng dậy nữa.Cái nóng giảm đi chừng vài độ nhưng thự c ra lạicòn kinh khủng hơn. Trong bầu không khí lặng yênhình như có hơi khí than lởn vởn. Mọi người dườngnhư không còn gì để thở nữa, lũ súc vật cũng khốnkhổ không ké m. Chỉ một giờ sau khi xuất phát lại một con ngựa nữa ngã gục xuống. Con chó Xaba thởhổn hển, bụng hóp cả lại, cái lưỡi xám xịt thè ranhư không còn một tí bọt nào. Còn con King vốnquen với cái khô cằn của vùng đồng hoang Phichâu, ít nhọc nhằn hơn, nhưng cũng đã bắt đầu nổicáu. Đôi mắt nhỏ bé của nó ánh lên những tia sáng kì lạ. Khi Xtas và nhất là Nen thỉnh thoảng nói vớinó đôi lời, nó còn đáp lại bằng một thứ tiếng gừ gừtrong cổ họng, nhưng Cali vô tình đi qua ngang gầnnó, nó rống lên dữ tợn và huơ vòi ra, suýt nữa thìgiết chết tươi cậu bé, nếu cậu không kịp nhảy tránhvề một bên. 
Mắt Cali cũng vằ n máu đỏ, những mạch máu trên cổ nó căng phồng ra, môi nứt nẻ như những người da đen khác. Khoảng năm giờ chiều, nó lại gần Xtas và nói bằng một giọng khản đặc khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cổ: 
- Ông lớn ơi, Cali không thể đi xa hơn được nữa. Cứ để cho đêm tới ngay chỗ này thôi. 
Xtas cố nén nỗi đau đớn trong hai hàm răng và nói một cách khó nhọc: 
- Cũng được! Dừng lại thôi. Đêm sẽ dễ chịu hơn. 
Mọi người ném phịch những kiện hàng đội trên đầu xuống đất, nhưng vì cái nóng trong người họ đã khiến cho máu đặc lại đến hết mức, nên lần này họ không nằm vật ngay xuống đất. Trái tim và những mạch máu ở thái dương họ, ở chân tay họ, đập mạnh như vỡ tung ra. Da trên thân thể họ khô đi, co lại và bắt đầu nứt nẻ, họ cảm thấy trong xương cốt có cái gì đó thật bồn chồn, còn trong lục phủ ngũ tạng cũng như trong họng thì có lửa đốt. Một số người đi đi lại lại vẻ đầy lo lắng bên cạnh những bọc hàng, còn những người khác thì trong ánh sáng đỏ của vầng mặt trời đang lặn có thể thấy họ nối nhau lẩn quẩn trong những bụi cây khô khỏng như đang muốn tìm kiếm vật gì cho tới khi sức họ hoàn toàn kiệt quệ. Khi đó họ nối nhau ngã xuống mặt đất và nằm xoài người trong cơn rung giật. Cali ngồi xệp bên cạnh Xtas cùng Nen, há hốc miệng đớp đớp không khí, giữa hai hơi thở nó lặp đi lặp lại như một lời van xin: 
- Bvana kubva, nước! 
Xtas dương cặp mắt đông cứng như thủy tinh nhìn nó và nín lặng. 
- bvana kubva! - Rồi một một lúc sau: - Cali chết mất. 
Khi đó, Mêa, người mà không rõ vì lí do nào có thể chịu đựng những cơn khát giỏi hơn cả và ít đau khổ hơn tất cả những người khác, bèn tiến đến gần, ngồi xuống cạnh cậu bé, ôm chặt lấy cổ nó và cất giọng du dương khe khẽ nói: 
- Mêa muốn chết với Cali... 
Im lặng kéo dài.............. 
Trong khi đó mặt trời lặn hẳn và đêm bao trùm lên cảnh vật. 
Bầu trời ngả sang màu tím than. Chòm sao chữ thập lóe sáng ở phương Nam. Những chòm sao dầy đặc lấp lánh vùng bình nguyên ấy. Mặt trăng dường như nhô lên từ dưới đất tỏa ánh sáng vào bóng đêm, còn phía trời Tây sáng lên, ánh sáng mờ mờ nhạt nhạt của hoàng đạo. Không khí như biến thành một bể ánh sáng to lớn duy nhất. Rồi ánh sáng mỗi lúc một rạng thêm lên. Cái bành trên lưng con King mà người ta đã lãng quên đi cùng nhữ ng lều trại sáng lên như những tường nhàđược quét vôi trắng ánh lên trong bóng đêm. Ánh sáng rơi vào im lặng, trái đất chìm trong giấc ngủ mê mệt. 
Thế mà trong cái im lặng và thanh bình này của thiên nhiên, những con người trong khu trại lại đang phải rên lên vì đau đớn và đang chờ chết. Trên cái nền bàng bạc của bóng tối hiện lên sắc cạnh những đường nét khổng lồ của con voi. Ngoài những chiếc lều ra, ánh trăng còn làm sáng lên những bộ quần áo màu trắng của Xtas và Nen, còn trong những bụi thạch thảo là những thân hình sẫm đen co quắp của những người da đen, đây đó vứt lỏng chỏng những bọc hàng hóa. Con Xaba ngồi tựa hai chân trước mặt bọn trẻ, ngẩng đầu trông lên cái đĩa của vầng trăng và hú lên thê thảm. 
Trong lòng Xtas quay cuồng những mẩu ý nghĩ, nhào trộn vào nhau thành một cảm giác tuyệt vọng câm lặng, rằng lúc này không còn cứu cánh nào cả, rằng tất thảy, tất thảy những cố gắng và công sức to lớn, những chịu đựng vô song, những hành động can trường và đầy ý chí mà em đã thực hiệ n trong thời gian những chuyến đi kinh khủng từ Mêđinét tới Kháctum, từ Kháctum tới Phasôđa rồi từ Phasôđa tới cái hồ chưa ai biết đến, đã không mang lại một kết quả gì hết, và giờ đây, cái kết cục chấm hết cuộc đấu tranh và sự sống đang kéo đến mộtcách không khoan nhượng. Đối với em, điều khủng khiếp hơn cả là ở chỗ, cái kết cục ấy lại đến chính trong đoạn đường cuối cù ng này, đoạn đường mà cáiđích là đại dương. Ôi, em không còn đưa được bé Nen đến bờ biển nữa, em không cò n được lao vào vòng tay cha, không được nghe ông khen em đã hành động như một thiếu niên can đảm, như một người Ba Lan chân chính nữa! Hết rồi, hết cả rồi! Vài ngày nữa thôi, mặt trời sẽ chỉ gặp những cái xác chết, và sau đó sẽ thiêu đốt chúng cho đến khi chúng giống như những cái xác ướp đang ngủ một giấc ngủ vĩnh hằng trong các viện bảo tàng ở Ai Cập. 
Vì đau đớn và nóng sốt, đầu óc em hỗn loạn. Những ảo ảnh và ảo âm hôn mê kéo tới. Em nghe rõ tiếng bọn Xuđan và bọn Bêđuin thét lên: “Yalla, yalla” trên những con lạc đà phi nước đại. 
Em trông thấy Iđrix và Ghebơrơ. Gã Mahơđi với cặp môi dầy đang mỉm cười nhìn em và hỏi: “Cháu có muốn uống nước từ nguồn suối chân lí hay không?...” Tiếp đó con sư tử trên phiến đá đang dương mắt nhìn em, rồi ông Linđe đưa cho em lọ thuốc kí ninh và bảo: 
“Nhanh lên, nhanh lên cháu, cô bé đang chết kia kìa!” Rồi cuối cùng, em chỉ còn nhìn thấy khuôn mặt vô cùng thân yêu, tái nhợt, và hai cánh tay nhỏ bé đang vươn về phía em. 
Đột nhiên em rùng mình tỉnh dậy vì sát bên tai loáng thoáng tiếng thì thào nghe như một lời than vãn của Nen: 
- Anh Xtas... nước! 
Cũng giống như Cali vừa rồi, cô bé chỉ trông vào em, chờ sự cứu vớt. Nhưng vì mười hai tiếng đồng hồ trước đây em đã trao cho cô bé những giọt nước cuối cùng, nên lúc này em bật dậy, kêu lên thành tiếng, trong tiếng kêu đó có sự bùng nổ của nỗi đau đớn tuyệt vọng và tủi thân: 
- Nen ôi! Anh chỉ giả vờ uống thôi, chứ ba ngày nay anh không có một chút nước nào trong họng! 
Rồi hai tay ôm chặt lấy đầu, em chạy trốn để khỏi phải nhìn thấy nỗi đau đớn của cô bé. Em cắm đầu chạy như mù giữa những bụi cỏ và thạch thảo cho tới khi ngã vật vào một bụi cây vì hoàn toàn kiệt sức. Em không còn một chút khí giới nào để tự vệ. Bất kì một con báo, một con sư tử hay thậ m chí một con linh cẩu lớn nào cũng có thể ăn thịt em một cách dễ dàng. Nhưng con chó Xaba chạy lại, và sau khi ngửi ngửi khắp người em, con chó hú lên, nhưng muốn gọi người cứu lấy chủ. 
Song chẳng hề có ai vội đến cứu. Từ trên trời cao, vầng trăng thản nhiên và không chút động lòng nhìn xuống. Cậu bé nằm rất lâu như đã chết. Mãi tới khi một hơi gió mát mẻ hơn chợt thổi từ phíaĐông tới, khiế n em hồi lại. Xtas ngồi dậy, và lát sau, cố gắng đứng lên để quay về phía Nen. 
Hơi gió mát hơn lại thổi đến với em lần thứ hai. Con Xaba thôi hú và quay mũi về phía Đông, cánh mũi phập phồng. Bỗng nhiên nó bật sủa lên một tiếng, rồi hai tiếng, bằng cái giọng trầm đứt đoạn, và nó lao đi về phía trước mặt. Một hồi lâu không nghe thấy tiếng nó, nhưng rồi lát sau tiếng sủa của nó lại vang lên từ phía xa xa. Xtas đứng dậy chuệch choạng trên hai chân cứng đờ dõi nhìn theo nó. Nhữ ng chặng đường dằng dặc, cuộc sống kéo dài trong rừng, sự cần thiết phải căng thẳng tất cả các giác quan một cách thường xuyên, cùng những nỗi nguy hiểm luôn luôn đe dọa để dạy cho cậu bé chú ý đến tất cả những gì xảy ra chung quanh, nên giờ đây, mặc dù đau đớn, mặc dù trí óc không thật tỉnh táo, nhưng bằng bản năng và thói quen, em liền chú ý ngay tới hành động của con chó. Một lúc sau, con Xaba lại xuất hiện bên cạnh em có vẻ rất xúc động và loay hoay một cách lạ lùng. Mấy lần liền nó ngước mắt nhìn Xtas, nó chạy vòng tròn, rồi lại lao đi, hít hít không khí và sủa về phía đám thạch thảo, rồi lại quay trở lại, và cắn lấy quần cậu bé lôi về phía ngược với trạ i. 
Xtas đã hoàn toàn tỉnh táo. 
“Gì thế nhỉ? - Em nghĩ thầm - Hoặc là con chó đã hóa điên vì quá khát, hoặc là nó cảm thấy có nước đâu đây. Nhưng mà không!... Giá như có nguồn nước gần đây thì nó đã phải chạy ngay tới uống và mõm nó phải ướt chứ. Nếu như nước ở xa thì hẳn là nó không ngửi thấy... nước không có mùi... Còn nếu có linh dương thì chắ c nó không muốn ăn. Thú dữ chắc cũ ng không phải... Vậy thì là cái gì? 
Và bỗng nhiên trái tim cậu bé đập mạnh hơn trong lồng ngực. 
“Vậy rất có thể là gió đã mang lại hơi người... Có thể ở phía xa xa kia có một cái làng dân da đen nào chăng?... Có thể một cái diều đã bay được tới tận...Ôi, Đức Chúa Giêsu lòng lành, ôi Đức Chúa Giêsu...” Dưới ảnh hưởng của tia hi vọng, em bỗng lấy lại được sức lực và lao ngay về phía trại mặc dù con chó cứ cưỡng lại, bằng cách chạy chắ n đường em. 
Trong trại, em trông thấy cái bóng trắng của Nen, em nghe thấy tiếng nói yếu ớt của cô bé, em vấp phải Cali đang nằm trên mặt đất, nhưng em không còn để ý đến điều gì nữa cả. Em lao đến cái gói đựng pháo hiệu, xé toạc ra, rút một cái, tay run rẩy buộc nó vào một cái cọc tre cắm xuống khe nứt trên mặt đất, đánh lửa và châm vào sợi dây ngòi nhỏ lủng lẳng dưới chân ống pháo. 
Một giây sau, một con rắn đỏ vừa kêu rít vừa bay lên cao, Xtas ôm chặt hai tay vào cây cọc tre để khỏi ngã và dán mắt nhìn về phía xa. Mạch ở tay em và ở thái dương em đập mạnh như búa, môi em mấp máy những câu cầu nguyện khẩn thiết. Em gửi hơi thở cuối cùng của mình trong đó chứa đựng cả tâm hồn đến với Đức Chúa. 
Một phút trôi qua, rồi hai, ba, bốn phút. Không thấy gì, không thấy gì cả! Hai tay cậu bé buông thõng xuống, đầu gục xuống phía mặt đất và một nỗi tủi hận trào lên trong lồng ngực đã quá đau khổ của em. 
- Vô ích! Vô ích! - Em thì thào. - Ta sẽ đến, ngồi xuống cạnh Nen và sẽ chết cùng em! 
.... 
Chính vào lúc ấy, ở xa xa, trên cái nền màu bạc của đêm trăng, đột nhiên vọt lên một dải lửa rồi tóe ra thành những vì sao màu vàng rơi lả tả như những giọt lệ lớn xuống mặt đất. 
- Cứu tinh... - Xtas kêu lên. 
Thế là những người vừa như chết dở mới đây lao dậy chạy như đua nhau vượt qua những bụi thạch thảo và những bụi cỏ. 
Sau cái pháo hiệu thứ nhất tiếp đến cái thứ hai rồi thứ ba. Sau đó hơi gió mang lại tiếng gì như tiếng gõ mà người ta dễ dàng nhận ra đó là tiếng súng xa xa. Xtas ra lệnh cho tất cả các khẩu súng rêmingtơn đều phát hỏa, thế là từ đó cuộc đối thoại của những khẩu súng trường không ngơi nghỉ một giây, mỗi lúc càng nghe rõ hơn lên. Cậu bé nhảy lên lưng ngựa, con ngựa dường như cũng được một phép thần nào đó trả lại cho sức lực, và giữ chặt Nen trước yên, Xtas phi như bay về phía những thanh âm cứu tinh, xuyên qua đồng bằng. Con Xaba chạy theo bên cạnh, phía sau là con King khổng lồ với nhữ ng bước chân thình thịch. 
Hai trại cách nhau chừng vài cây số, nhưng vì người ta lao đến với nhau từ cả hai phía đồng thời, nên quãng đường đó chẳng phải đi mất bao lâu. Chẳng mấy chốc, không những chỉ nghe mà còn thấy được nhữ ng phát súng bắn nữa. Lại thêm một chiếc pháo hiệu bay lên không trung, cách đấy cùng lắm chỉ vài trăm bước chân. Rồi nhiều ánh đuốc sáng bừng lên. Mặt đất hơi nhô cao che khuất chúng đi trong giây lát, nhưng khi Xtas vừa vượt qua được thì em gần như đột ngột chạm ngay vào một hàng rào người da đen đang cầm trong tay những bó đuốc chá y rừng rực. 
Dẫn đầu đoàn là hai người Âu đội mũ kiểu Anh và cầm súng. 
Chỉ cần thoáng qua Xtas đã nhận ra ngay đó chính là đại uý Glen và bác sĩ Clery.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương 46

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Chuyến đi của đại uý Glen và bác sĩ Clery hoàn toàn không nhằm mục đích tìm kiếm Nen và Xtas.Đó là một chuyến đi rất đông người và được hậu cần chu đáo của chính phủ, nhằm mục đích nghiêncứu sườn phía Đông Bắc của dãy núi Kilima Ndarô khổng lồ, cùng với những vùng đất còn rất ít được biết đến nằm ở phía Bắc rặng núi này. Mặ c dù cả đại uý lẫn bác sĩ đều biết tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc từ Mêđinét En Phaium (vì các nhật báo Anh và Ả Rập đều đưa tin này) nhưng họ nghĩ rằng cả hai trẻ hoặc đã chết hoặc đang rên xiết trong cảnh nô lệ ở xứ sở của tên Mahơđi, nơi mà không một ngườidân châu Âu nào trốn thoát. Ông Clery có người chị lấy ông Rôlixơn ở Bombay, rất yêu thích cô bé Nen trong chuyến đi tới Cairô, cảm thấy vô cùng đau đớn vì bị mất cô bé. 
Song cả hai ông nói chung cũngchân thành thương tiếc cậu bé cương nghị. Đã mấy lần liề n từ Mombaxa họ gửi điện tới ông Rôlixơn để hỏi thăm xem đã tìm thấy bọn trẻ chưa, và mãi cho tới khi nhận được bức điện cuối cùng - điện đến từ trước khi họ lên đường khá lâu - với câu trả lời mang tin buồn, thì cả hai mới mất hi vọng. 
Thậm chí họ không hề nghĩ rằng bọn trẻ vốn bị giam ở thành Kháctum xa xôi lại có thể xuất hiện ở vùng này. Tuy nhiên, thường thường, về đêm, sau khi kết thúc những công việc ban ngày, họ thường trò chuyện về bọn trẻ, vì bác sĩ không sao quên nổi cô bé xinh xắn tuyệt vời nọ. 
Trong khi đó, chuyến đi của họ càng ngày càng tiến xa. Sau khi dừng chân một thời gian lâu trêncác sườn phía Đông của dãy núi Kilima Ndarô, sau khi đã khảo sát nguồn sông Xốpbát và Tana cùng ngọn núi Kênia, đại uý và bác sĩ quặt về phía Bắc, rồi sau khi vượt qua vùng Cuaxô Nưirô lầy lội, họ tiến vào một vùng đồng bằng rộng lớn, không cư dân, chỉ có những đàn linh dương không tính xuể sinh sống. Sau hơn ba tháng đi đường, cần để cho mọi người được nghỉ ngơi một thời gian dài, vậy nên đại uý Glen - sau khi phát hiện được cái hồ nhỏ nhiều nước, một thứ nước màu nâu nâu nhưng rất lành, liền ra lệnh hạ trại tại đó và tuyên bố nghỉ mười ngày. 
Trong khi dừng chân nghỉ, hai người da trắng thường lo việc săn bắn, chỉnh lại những ghi chép về địa lí và tự nhiên, còn những người da đen thì rong chơi theo đúng sở thích của họ. Một ngày kia, bác sĩ Clery dậy sớm, vừa khi đến bên bờ hồ, ông trông thấy khoảng mươi người Dandiba trong đoàn đang ngước mắt nhìn lên một ngọn cây cao, lặp đi lặp lại một cách luẩn quẩn: 
- Ndege? Akuna ndege! Ndege? (Chim? không phải chim! 
Chim?) Bác sĩ bị cận thị nên bảo người về lều mang lại cho mình cái kính dã chiến, rồi nhìn qua kính lên cái vật mà những người da đen đang chỉ trỏ - và một nỗi kinh ngạc hiện lên trên mặt ông. 
- Hãy mời đại uý đến ngay! - Ông bảo. 
Song trước khi những người da đen kịp chạy đến nơi, đại uý đã hiện ra trước cửa lều vì ông đang định đi săn linh dương. 
- Trông này, anh Glen! - Bác sĩ vừa nói vừa trỏ lên cây. 
Đến lượt đại uý cũng ngửa đầu nhìn lên, lấy tay che mắt và ngạc nhiên không kém bác sĩ. 
- Cái diều! - Ông kêu lên. 
- Phải, nhưng những người da đen không biết thả diều, từ đâu nó bay lại đây mới được chứ? 
- Có lẽ có một cái làng da trắng nào hay một đoàn truyền giáo nào đó đang ở gần đây chăng?... 
- Gió đã thổi từ hướng Tây suốt ba ngày nay rồi, nghĩa là thổi từ phía vùng ta chưa biết, vùng mà hình như cũng không người như cái đồng hoang này vậy. Mà anh cũng biết đấy, vùng này đâu có làng nào, cũng có đoàn truyền giáo nào đâu. 
- Vậy thì lạ thật nhỉ... 
- Phải lấy cho được. Có thể chúng ta sẽ biết được nó xuất phát từ đâu chăng.
Đại uý ra lệnh. Cái cây cao vài chục mét, nhưng những người da đen trong chớp mắt đã leo lên đến ngọn, cẩn thận lấy cái diều đang bị vướng xuống, đưa cho bác sĩ. Bác sĩ vừa nhìn cái diề u đã bảo ngay: 
- Có những chữ gì đây này... Ta đọc xem...Rồi nheo mắt lại, ông bắt đầu đọc. Bỗng nhiên mặt ông biến đổi hẳn, tay run run. 
- Anh Glen, - ông nói, - anh hãy cầm lấy đọc lênvà bảo cho tôi biết xem tôi có bị say nắng không và trí óc tôi có hoàn toàn minh mẫn hay không. 
Đại uý cầm lấy cái gọng diều bằng tre có dán tờ giấy và đọc như sau: “Nenly Rôlixơn và Xtanixoáp Tarcôpxki. 
Bị đưa từ Kháctum đi Phasôđa. Rồi từ Phasôđa bị đưa về phía dòng sông Nin.Đã thoát khỏi tay bọn phiến loạn. Sau nhiều tháng đi đường chúng tôi đã đến được một cái hồ nằm ở phía Nam Abixinia.Chúng tôi đang đi về phía Đông. Yêu cầu được cứu ngay".Ở rìa tờ giấy có một dòng ghi thêm bằng nét chữ nhỏ hơn: 
“Cái diều này là cái thứ năm mươi tư, đượ c thả lên từ dãy núi vây quanh cái hồ chưa có tên trong địa lí. Ai nhặt được xin chuyển cho Công ti Kênh đào ở Port Xaiđơ hoặc cho đại uý Glen ở Momxaba. 
Xtanixoáp Tarcôpxki“. Khi giọng đọc của đại uý đã lặng đi, cả hai người bạn cùng im lặng nhìn nhau. 
- Cái gì thế này? - Mãi sau bác sĩ Clery mới hỏi. 
- Tôi không tin vào mắt mình nữa! - Đại uý trả lời. 
- Nhưng đây đâu phải là ảo ảnh. 
- Không phải! 
- Rõ ràng viết: “Nenly Rôlixơn và XtanixoápTarcôpxki”. 
- Thật rõ ràng. 
- Sao bọn trẻ lại có thể ở vùng này nhỉ? 
- Chúa đã cứu thoát chúng, rất có thể là như thế. 
- Tạ ơn Người! - Bác sĩ nhiệt thành kêu lên. 
- Nhưng biết tìm bọn chúng ở đâu bây giờ. 
- Trên diều không còn viết thêm gì nữa à? 
- Còn vài chữ nữa nhưng đúng vào chỗ bị cành cây chọc thủng. Khó mà đọc nổi. 
Cả hai chụm đầu xuống tờ giấy và sau khi nghiên cứu khá lâu, họ mới đánh vần được nổi: 
- “Mùa mưa qua đã lâu”. 
- Thế có nghĩa là gì? - bác sĩ hỏi. 
- Có nghĩa là thằng bé không còn tính được thời gian nữa. 
- Và bằng cách này nó muốn báo gần đúng thời gian. Anh nó i phải lắm. Và như thế có nghĩa là chiếc diều này mới thả cách đây chưa lâu. 
- Nếu đúng như thế thì bọn trẻ ở cách đây không xa! 
Cuộc trò chuyện sôi nổi đứt đoạn còn kéo dài một chút nữa, rồi hai người bạn lại nghiên cứu cái tài liệu nọ một lần nữa, mỗi người đều nghiền ngẫm riêng mình thật kĩ mỗi lời mỗi chữ ghi trên đó. Song việc này khó tin đến nỗi giá như nó không xảy rađúng vào cái vùng hoàn toàn không có người Âu sinh sống và cách bờ biển những sáu trăm cây số, thì hẳn bác sĩ và đại uý đã cho rằng đó chỉ là mộttrò đùa không phải lúc mà một bạn trẻ người Âu nào đó hoặc những đứa con nuôi của một đoàn truyền giáo nào đó đã bày đặt ra sau khi đọc tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc qua các báo mà thôi. Song thật khó mà không tin vào chính mắt mình: họ đang cầm cái diều thật trong tay, trên đó nổi rõ lên những hàng chữ màu đen đã hơi bị mờ đi. 
Ấy thế mà nhiều chuyện họ không sao hiểu nổi. Bọn trẻ kiếm ở đâu ra giấy để làm diều? Nếu như có một đoàn thương khách nào đó cho chúng giấy, thì hẳn là chúng đã nhập luôn vào đó và đâu cần xin cứu viện nữa. Vì những lí do gì mà cậu bé không cố gắng cùng với cô bạn đồng hành nhỏ bé của mình chạy trốn sang Abixinia? Vì sao bọn phiếnloạn đày bọn trẻ về phía Đông sông Nin, tới vùng đất chưa ngườ i biết đến? Làm cách nào chúng có thể thoát khỏi tay bọn canh giữ? Chúng ẩn náu ở đâu? Bằng phép màu nhiệm nào mà suốt hàng tháng trời đi đường ròng rã chúng không bị chết đói, không làm mồi cho dã thú? Vì sao những người dã man không giết chúng? Tất cả những câu hỏi đó đều không có trả lời. 
- Tôi không hiểu gì cả, tôi không thể hiểu gì cả! 
- Bác sĩ Glery lặp đi lặp lại. - Họa chăng đó là sự kì diệu của Chúa. 
- Chắc chắn là thế. - Đại uý đáp. 
Rồi ông nói thêm: 
- Nhưng cả cái thằng bé ấy nữa chứ! Vì rõ ràng đây là công lao của nó. 
- Nó đã không bỏ rơi con bé! Cầu Chúa ban phước lành cho cái đầu và đôi mắt của chú bé! 
- Xtanlây, thậm chí cả Xtanlây cũng không thể sống nổi quá ba ngày trong những điều kiện như thế. 
- Ấy thế mà bọn trẻ lại sống nổi. 
- Và chúng đang cầu cứu. Chấm dứt chuyện nghỉ ngơi! Lên đường ngay lập tức! 
Và họ làm đúng thế. Dọc đường hai người bạn lại nghiên cứu tài liệu một lần nữa, vì họ tin rằng có thể tìm thấy trong đó lời chỉ dẫn về phương hướng mà họ cần phải đi để cứu bọn trẻ. 
Nhưngkhông có chỉ dẫn nào hết. Đại uý dẫn đoàn đi theo đường dích dắc với hi vọng là có thể gặp một đống lửa đã tắt hoặc những dấu hiệu nào đó khắc lên vỏ cây. Họ cứ đi như thế mấy ngày liền. 
Không may, sau đó họ tiến vào một vùng đồng bằng hoàn toàn không có cây cối gì, chỉ phủ đầy những bụi thạch thảo cao và những lùm cỏ khô khốc. Nỗi lo lắng bắt đầu hành hạ hai ngườ i bạn. Trên cái khoảng không gian mênh mông này thậm chí có thể dễ dàng bỏ qua cả những đoàn thương khách lớn chứ chưa nói tới hai đứa trẻ con, mà theo tưởng tượng của họ, đang bò trườn ở đâu đó như hai con sâu nhỏ giữa nhữ ng bụi thạch thảo còn cao hơn chúng nữ a. Lại một ngày nữa trôi qua. Nhữ ng cái lon đựng giấy để lại trong các bụi cây cũng như những đống lửa ban đêm không hề giúp gì. Đại uý và bác sĩ đôi khi đã bắt đầu thấy mất hi vọng, không hiểu liệu có tìm thấy bọn trẻ hay không, nhất là có tìm thấy chúng cò n sống hay không. 
Tuy nhiên, họ vẫn tìm kiếm một cách nhiệt thành suốt mấy ngày nữa. Những đội tuần tra mà đại uý Glen phái đi sang phía bên trái và bên phải cho biết rằng tiếp theo đây sẽ là vùng hoang mạc khô cằn hoàn toàn không có nước, cho nên khi tình cờ tìm thấy nước trong một khe đất, họ đành phải dừng lại để lấy nước chuẩn bị cho chuyến đi tiếp tục. 
Cái khe thực ra chỉ là một hẽm sâu chừng mươi mét và rất hẹp. Dưới lòng khe có nguồn nước nóngsủi bọt như sôi vì có chứa axít cácbôníc. Song sau khi để nguội đi, nước lại rất tốt và rất lành. Nguồn nước dồi dào đến nỗi cả ba trăm người trong đoàn cũng không thể khiến nó cạn được. Ngược lại, họcàng lấy nhiều nước bao nhiêu thì nguồn lại càng phun mạnh bấy nhiêu và khiến cho khe càng đầy hơn nhiều. 
- Cũng có thể với thời gian vù ng này sẽ thành một nơi chữa bệnh, - bác sĩ Clery nói. Nhưng hiện nay thì bọn thú không uống được nước này vì hai sườn khe quá dốc. 
- Liệu bọn trẻ có tìm ra được một nguồn nước tương tự như thế này không nhỉ? - Đại uý hỏi. 
- Không rõ. Cũng có thể là trong vùng này có nhiều nguồn nước. Nhưng nếu không thì bọn trẻ chết mất vì thiếu nước. 
Đêm đến. Họ đốt lên những đống lửa heo hắt mặc dù không dựng hàng rào chắn vì chẳng biết dựng bằng gì. Sau khi ăn tối, bác sĩ và đại uý ngồi trên những chiếc ghế gấp và vừa hút thuốc vừa trò chuyện về những điều đang đè nặng nhất lên trái tim họ. 
- Không có lấy một dấu vết nào hết! - Ông Clerythốt lên. 
- Mình đã định, - Glen đáp, - phái mươi người của chúng ta đi đến biển để đánh điện báo là đã có tin bọn trẻ. Nhưng thật mừng là mình đã không làm việc đó, vì chắc là những người này sẽ chết dọc đường, mà nếu họ có đến nơi được chăng nữa thì khuấy lên cái hi vọng hão huyền mà làm gì... 
- Để lại khiến cho nỗi đau trở lại... 
Bác sĩ nhấc cái mũ ra khỏi đầu, lau trán đẫm mồ hôi. 
- Này, - ông nói, - nhưng nếu chúng mình quay trở lại cái hồ ấy, chặt thật nhiều cây và đêm đêm đốt những đống lửa thật to thì có thể bọn trẻ thấy được đấy... 
- Nếu như chúng ở gần thì thể nào chúng mình cũng tìm được chúng, còn nếu chúng ở xa thì sự lồi lõm của địa hình sẽ che mất ánh lửa. Cái bình nguyên này có vẻ bằng phẳng nhưng thực ra đầy gò đống, lượn sóng như mặt đại dương. Thêm nữa, nếu đi lùi lại thì chúng mình bị mất thêm khả năng tìm ra dấu vết của bọn trẻ. 
- Anh hãy nói thẳng xem, không còn tí hi vọng nào nữa à? 
- Bạn thân yêu ơi, chúng ta là người lớn, mạnh khỏe và tháo vát, thế nhưng cậu hãy nghĩ thử xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chúng mình chỉ có độc hai đứa rơi vào xứ này, cứ cho là có cả khí giới đi, nhưng không có lương thực và không có người nào khác... 
- Phải, phải, đáng buồn là đúng như vậy... Tôi hình dung ra cảnh hai đứa trẻ đi qua vùng hoang mạc trong một đêm như thế này. 
- Đói, khát, thú dữ... 
- Ấy thế mà thằng bé lại viết rằng chúng nó đã đi qua nhiều tháng ròng rã. 
- Thế nên trong chuyện này có cái gì đó vượt quá sức tưởng tượng của mình. 
Một hồi lâu trong lặng im chỉ nghe thấy tiếng thuốc lá đang ngún cháy trong nõ tẩu. Bá c sĩ nhìn đăm đăm vào bóng đêm nhợt nhạt, rồi hạ giọng nói: 
- Khuya rồi, nhưng tôi không thấy buồn ngủ...Cứ nghĩ rằng bọn trẻ còn sống, vẫn đang lang thang đâu đó trong ánh trăng, giữa những bụi thạch thảo khô khốc này... mỗi mình hai đứa... hai đứa trẻ con như thế. Anh có nhớ không, Glen, cái khuôn mặt đầy vẻ thiên thần của cô bé. 
- Nhớ chứ, mình không sao quên được. 
- Ôi! Tôi sẵn sàng để cho chặt tay mình giá như... 
Ông không nói hết câu, vì đại uý Glen bật dậy như bị bỏng. 
- Pháo hiệu ở phía xa! - Ông kêu lên. - Pháohiệu! 
- Pháo hiệu! - Bác sĩ lắp lại. 
- Có một đoàn người nào đó đang ở phía trướcchúng ta. 
- Có thể là họ đã tìm thấy bọn trẻ. 
- Có thể. Mau đến với họ đi! 
- Tiến lên! 
Nhữ ng mệnh lệnh của đại uý trong chớp mắt loan ra toàn trại. Những người Danbiba bật dậy.Nhữ ng ngọn đuốc được thắp sáng lên ngay. Để trả lời lại tín hiệu phía xa, ông Glen cho đốt liền mấy cái pháo hiệu, cái nọ tiếp theo cái kia, rồi sau đó cho bắn mấy loạt súng. Chưa đầy mươi lăm phút cả trại đã lên đường. 
Từ phía xa có những tiếng súng đáp lại. Không còn nghi ngờ gì nữa, rằng có một đoàn người Âu đang kêu gọi sự giúp đỡ vì một lí do chưa tường nào đó. 
Đại uý và bác sĩ thi nhau chạy, vừa hi vọng vừa phập phồng lo sợ. Họ có tìm thấy bọn trẻ hay không? Bác sĩ nhủ thầm trong bụng rằng nếu như không thì chắc hẳn trên con đường tiếp theo đó họ chỉ còn tìm thấy xác của chúng giữa những lùm thạch thảo kinh khủng này mà thôi. 
Nửa giờ sau, một cái gò nhô lên trong số nhữ ng chỗ lồi lõm được nói tới trên kia đã chắn mất tầm mắt của hai người bạn. 
Nhưng họ đã tới gần đến nỗi có thể nghe rõ tiếng vó ngựa. Chỉ mấy phút sau, trên sườn đồi đã hiện ra một kị sĩ đang ôm giữ trước mặt mình một vật gì đó to lớn màu trắng. 
- Giơ đuốc lên cao! - Glen ra lệnh. 
Đúng vào lúc đó người kị sĩ nọ dừng ngựa trong vùng ánh sáng. 
- Nước! Nước! 
- Bọn trẻ! - Bác sĩ Clery hét lên. 
- Nước! - Xtas lặp lại. Và em gần như ném Nen vào tay đại uý rồi nhảy xuống ngựa. 
Song ngay tức khắc em lảo đảo và ngã vật xuống như chết.



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Chương kết

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Niềm vui sướng trong trại của đại uý Glen vừa bác sĩ Clery thật là vô hạn, nhưng sự tò mò của hai người Anh này cũng bị đặt trước những thử thách nghiêm trọng. Nếu như trước đây họ không thể nào tin được rằng bọn trẻ lại có thể vượt qua những vùng rừng thẳm và sa mạc mênh mông ngăn cách những vùng sông Nin ấy và Phasôđa, thì giờ đây họ lại hoàn toàn không thể hiểu nổi bằng cách nào “chàng Ba Lan nhỏ bé” ấy - như họ thường gọi Xtas - không những chỉ làm được chuyện ấy mà lại còn xuất hiện trước mặt họ với cương vị thủ lĩnh của cả một đoàn người được vũ trang bằng vũ khí châu Âu, với một thớt voi mang bành, với lũ ngựa, lều trại và rất nhiều lương thực dự trữ. Đại uý chỉ biết chìa tay bất lực trước những cảnh ấy, chốc chốc lại nói: “Clery này, mình đã trông thấy nhiều chuyện, nhưng chưa bao giờ được gặp một đứa bé như thế này!” Còn bác sĩ thì lặp đi lặp lại vẻ không ít kinh ngạc hơn: 
“Nó giành lại cô bé từ cảnh nô lệ, rồi cứu thoát cô bé nữa chứ!” - Rồi ông lại chạy đến khu lều trại xem thử bọn trẻ có việc gì không và chúng ngủ có ngon giấc không. 
Còn bọn trẻ, được uống đẫy, được cho ăn no và đặt nằm ngủ, chúng ngủ say như chết suốt cả ngày hôm sau. Những người trong đoàn cũng vậy. Đại uý Glen cố gắng hỏi Cali về những chuyện xảy ra trong khi đi đường và về những chiến công của Xtas, nhưng cậu bé da đen chỉ mở một mắt đáp gọn lỏn: “Ông lớn có thể làm được mọi chuyện!” - rồi nó lại ngủ tiếp. Cuối cùng đành phải xếp những câu hỏi và lời giải thích sang những ngày sau. 
Trong lúc đó, hai người bạn bàn bạc với nhau về con đường quay trở về Mombaxa. Họ đã thâm nhập được xa hơn và nghiên cứu được một vùng rộng hơn so với yêu cầu, nên họ quyết định quay trở về ngay. Quả tình đại uý cũng rất mong muốn được biết cái hồ chưa có tên trong địa lí kia, nhưng sự lo lắng cho sức khỏe bọn trẻ và mong muốn được nhanh chóng trả chúng vào tay các ông bố đang đau buồn đã chiến thắng. Tuy nhiên bác sĩ cho rằng trước hết cần nghỉ ngơi trên những cao nguyên mát mẻ của dãy núi Kênia hoặc Kilima Ndarô. Từ đó sẽ gửi tin đến cho các ông bố và gọi họ đến Mombaxa. 
Sau khi được nghỉ ngơi đầy đủ và được tắm trong nguồn suố i nước nóng, ba ngày sau họ bắt đầu lên đường quay về. Đó cũng là ngày chia tay với Cali. Xtas đã thuyết phục cô bé rằng nếu cứ kéo cậu da đen đi theo chúng xa hơn nữa, đến bờ đại dương hay tới Ai Cập, thì sẽ là chuyện tự tiện không phải lối về phía bọn trẻ. Cậu bé nói rằng ở Ai cập, thậm chí ở nước Anh, Cali sẽ không phải là ai khác ngoài vai trò đầy tớ, trong khi đó, nếu nắm quyền cai trị dân tộc mình, cậu bé có thể sẽ truyền bá và củng cố đạo Thiên Chúa, và là vua, cậu bé sẽ làm dịu bớt những phong tục hoang dã của người Vahima, biến họ không những chỉ trở nên văn minh mà còn trở nên tốt nữa. Em cũng nói ít nhiều tương tự như thế đối với Cali. 
Trong cuộc chia tay đã có biết bao lệ đổ ra, nhưng cả Xtas cũng không thấy xấu hổ vì nhữnggiọt lệ đó, vì em và Nen đều đã cùng với Cali sống qua ngần ấy giờ phút sướng khổ, cả hai không những chỉ học được cách đánh giá cao trái tim trong sạch của cậu bé da đen mà còn yêu thương nó chân thành. Cậu bé da đen nằm rất lâu bên chân vị bvana kubva cùng Mdimu Tốt của mình. Hai lần liền nó quay lại để nhìn hai trẻ, nhưng rồi phút giây chia li đã tới và hai đoàn người đi về hai hướng ngược nhau. 
Mãi đến khi đi đường, những chuyện phiêu lưu của hai nhà bộ hành trẻ tuổi mới được bắt đầu kể lại. Ngày trước Xtas hơi có khuynh hướng tự thổi phồng mình, thì giờ đây em hoàn toàn không mộtchút kiêu căng. Đã có quá nhiều việc em thực hiện, quá nhiều chuyện em phải trải qua, em đã phát triển đến mức hiểu được rằng lời nói không nên lớn hơn việc làm. Thực ra cũng chỉ cần kể lại - dù là rất khiêm tốn - riêng những việc làm đó cũng quá đủ rồi. Cứ hàng ngày, trong những “giờ trắng” nóng bức, và ban đêm, bên nhữ ng chỗ nghỉ chân, trước mắt đại uý Glen và bác sĩ Clery dường như lần lượt diễu qua bức tranh của những sự kiện và những chuyện bất ngờ mà bọn trẻ đã trải qua. Họ như trông thấy cuộc bắt cóc ở Mêđinét En Phaium và con đường khủng khiếp trên lưng lạc đà vượt qua sa mạc, và Kháctum, rồi Omđuaman, giống như địa ngục trần gian, rồi tên Mahơđi gian ác. Khi Xtas kể chuyện em đã trả lời Mahơđi như thế nào lúc tên này khuyên em thay đổi tín ngưỡng thì cả hai người bạn bèn đứng ngay dậy và lần lượt từng người bắtchặt tay phải Xtas. Đại uý nói: 
- Mahơđi chết rồi! 
- Mahơđi chết rồi ư? - Xtas kinh ngạc nhắc lại. 
- Phải! - Bác sĩ lên tiếng. - Y bị chết bởi chính mỡ của y, hay nói khác đi, y bị chết vì bệnh tim, vàÁpđulahi kế ngôi y. 
Một sự im lặng kéo dài. 
- Ha! - Xtas nói. - Khi đày chúng cháu đi chết ở Phasôđa, y không ngờ rằng cái chết sẽ chạm đến y trước... 
Rồi lát sau em nói thêm: 
- Nhưng tên Ápđulahi còn tàn ác hơn Mahơđi. 
- Vì thế cũng đã bắt đầu có những vụ nổi loạn và những cuộc tàn sát, - đại uý nói, - và cả cái công trình mà Mahơđi đã dựng lên chóng hay chầy cũng sẽ phải sụp đổ. 
.......... 
Trong chặng đường tiếp đó, Xtas kể về con đường đi tới Phasôđa, về cái chết của bà Đina, về cuộc khởi hành từ Phasôđa tới nhữ ng vùng đất khôngngười, và về chuyện tìm kiếm gã Xmainơ tại những vùng đó. Khi em kể đến đoạn giết con sư tử, rồi Ghebơrơ, Khamix cù ng hai tên Bêđuin, đại uý chỉ ngắt lời em bằng hai tiếng: “All right”1, rồi lại xiết chặt bàn tay phải em và cùng với bác sĩ Clery nghe tiếp với vẻ ngày càng chăm chú hơn về sự thuần dưỡng con King, về sự sinh sống trong “Cracốp”, về bệnh sốt rét của Nen, về việc tìm thấy ông Linđe và về những chiếc diều mà bọn trẻ thả lên từ núi Caramôiô. Bác sĩ - người càng ngày càng gắn bó với cô bé Nen hơn - vì quá lo lắng khi nghe những chuyện đe dọa tính mạng của cô bé nên chốc chốc lại phải nhấp một vài ngụ m rượu mạnh brandi, và khi Xtas kể đến chuyện chỉ chút xíu nữa Nen đã làm mồi cho con vôbô khủng khiếp, - tức là con abaxantô - ông bèn bế bổng cô bé lên lòng và rất lâu không muốn buông cô bé xuống, dường như sợ có một con thú dữ nào đó sẽ lại đe dọa tính mạng cô bé chăng. 
Còn về những gì mà cả bác sĩ lẫn đại uý nghĩ về Xtas thì có thể suy ra qua hai bức điện mà hai tuần sau khi tới chân núi Kilima Ndarô họ đã gửi cho những người tin cẩn mang tới tay viên phó chỉ huy của đại uý tại Mombaxa, với lệnh gửi tiếp cho hai ông bố. Bức điện thứ nhất, được cân nhắc rất kĩ vì lo nó sẽ gây ra ấn tượng quá mạnh chăng, được gửi tới Port Xaiđơ, chỉ mang vẻn vẹn mấy chữ sau: 
“Nhờ có cậu bé đã có tin tốt lành về hai trẻ. Mời các ngài đến Mombaxa”. 
Bức điện thứ hai, rõ ràng hoàn toàn, với địa chỉ “Ađen” có nội dung: 
“Hai trẻ đang ở chỗ chúng tôi - mạnh khỏe - cậu bé thật anh hùng”. 
Họ dừng chân mười lăm ngày trên những cao nguyên mát mẻ dưới chân núi Calima Ndarô vì bác sĩ Clery nhất thiết yêu cầu như thế nhằm bảo vệ sức khỏe cho Nen, và cả cho Xtas nữa. Bọn trẻ thật sự ngạc nhiên về ngọn núi này: nó có tất cả những vùng khí hậu của toàn thế giới. Hai đỉnh núi của dãy núi này: Kibô và Kima Venđe, ban ngày thường chìm trong làn sương mù dày đặc, nhưng trong những chiều đẹp trời, khi sương mù đột nhiên tan đi hết, khi lớp tuyết lưu cữu trên đỉnh Kima Venđe ánh lên màu hồng dưới ánh nắng mặt trời trong khi toàn bộ thế giới đã chìm vào bóng tối, thì ngọn núi nom giống như một cái bàn thờ thượng đế, và bàn tay hai trẻ bất giác chắp lại để nguyện cầu khi trông thấy cảnh ấy. 
........... 
Đối với Xtas, đã qua đi những ngày lo lắng và nỗ lực. Bọn trẻ còn một tháng trường đi tới Mombaxa, và con đường đi ngang qua khu rừng Taveta đẹp tuyệt vời nhưng không có lợi cho sức khỏe, song giờ đây thật là dễ dàng bao nhiêu khi được đi cùng với một đoàn thám hiểm đông đảo và được cung cấp đầy đủ mọi thứ, theo những tuyến đường đã quen thuộc, chứ không còn phải lang thang giữa vùng rừng hoang vu chưa từng được ai biết đến, chỉ với Cali và Mêa. Mà thực ra bây giờ đại uý Glen mới là người chịu trách nhiệm về chuyến đi. Còn Xtas thì chỉ nghỉ ngơi và săn bắn. Khi tìm thấy một cái đục và một cái búa con trong số những vật dụng của đoàn, trong những giờ mát mẻ, em tập trung vào việc khắc trên một tảng đá dòng chữ: “Ba Lan vẫn còn...”(2) Vì em muốn lưu lại một chút dấu vết về thời gian sinh sống của các em tại vùng đất ấy. Những người Anh được em dịch lại cho biết nội dung dòng khắc ấy đều ngạc nhiên: tại sao cậu bé không nghĩ tới chuyện khắc tên họ của em để in vĩnh viễn trên tảng đá Phi châu này. Nhưng em chỉ muốn khắc điều đã khắc mà thôi. 
Tuy nhiên, em vẫn không ngừng chăm lo cho Nen và vẫn khiến cô bé tin tưởng vô hạn, đến nỗi một lần bác sĩ Clery hỏi cô bé xem cô có sợ những cơn bão biển trên biển Đỏ không, cô bé bèn ngước cặp mắt bình thản tuyệt đẹp của mình lên nhìn ông và chỉ đáp gọn lỏn: “Đã có anh Xtas lo chuyện đó”. Đại uý Glen khẳng định rằng không ai có thể nói một lời khen ngợi nào cao hơn và cho được một bằng chứng nào chân chính hơn về những gì mà Xtas đã làm đối với cô bé. 
Mặc dù bức điện đầu tiên gửi tới Port Xaiđơ cho ông Tarcôpxki đã được cân nhắc rất cẩn thận nhưng nó vẫn gây ra những ấn tượng mạnh đến nỗi suýt nữa thì nỗi sung sướng giết chết cha của Nen. Ngay cả ông Tarcôpxki, một con người được tôi luyện nhiều, phút đầu tiên khi đọc điện cũng đã quỳ xuống cầu nguyện và xin Chúa cho cái tin tức đó không phải là một thứ ảo giác bệnh hoạn nảy sinh ra từ nỗi thương tiếc, nhớ nhung và đau đớn. Cả hai ông bố đã làm ngần ấy việc để được biết dù chỉ là tin bọn trẻ còn sống hay không mà thôi. Ông Rôlixơn đã phái nhiều đoàn đi Xuđan, còn ông Tarcôpxki thì mặc giả người Ả Rập, không màng nguy hiểm, lần mò tới tận Kháctum. Nhưng tất cả đều chẳng mang lại một kết quả gì cả. Những người có thể cung cấp tin tức cho họ đều đã bị chết vì bệnh đậu mùa, vì đói hay bị giết trong những vụ tàn sát bất tận, còn bọn trẻ thì mất tăm như đã rơi vào nước. Cuối cùng cả hai ông bố đã mất hoàn toàn hi vọng, chỉ còn sống bằng những hồi ức mà thôi. Họ tin tưởng sâu sắc rằng chẳng còn có gì chờ đợi họ trong cõi đời này nữa và chỉ cái chết mới có thể cho phép họ được sum họp lại với nhữ ng sinh linh yêu quý vô vàn ấy, những sinh linh đã từng là tất cả đối với họ trên cõi trần này. 
Đúng lúc đó, niềm vui sướng gần như quá sức đến với họ một cách thật bất ngờ. Niềm vui ấy gắn liền với nỗ i nghi hoặc và sự kinh ngạc. Cả hai ông bố đều không hiểu nổi tại sao tin tức lại đến với họ từ cái phía bên này của Phi châu, nghĩa là từ Mombaxa. 
Ông Tarcôpxki cho rằng có lẽ một đoàn thương khách Ả Rập nào đó đã mua hoặc đánh tháo cho bọn trẻ, đoàn này từ bờ biển phía Đông đã vào sâu trong lục địa săn ngà voi và tới tận sông Nin. Lời lẽ của bức điện “Nhờ có cậu bé” thì được họ giải thích cho nhau rằng chắ c Xtas đã viết thư báo cho đại uý và bác sĩ biết nơi mình và Nen đang ở. Tuy vậy có nhiề u điều không thể nào luận ra nổi. 
Ngược lại, ông Tarcôpxki hiểu hoàn toàn rõ rằng, tin tức đó không những chỉ tốt lành mà còn vô cù ng tốt lành nữa, vì nếu không thì đại uý và bác sĩ không khi nào dám đánh thức niềm hi vọng trong lòng họ và nhất là sẽ không khi nào mời họ tới Mombaxa làm gì. 
Việc chuẩn bị lên đường kéo dài không lâu và ngay hôm sau ngày nhận được điện, cả hai kĩ sư cùng với cô giáo của Nen đã có mặt trên boong chiếc tàu thủy khổng lồ Peninsular and Orient Company. Tàu này chạy tới Ấn Độ, dọc đường sẽ ghé vào Ađen, Mombaxa và Dandiba. Tại Ađen, bức điện thứ hai đang chờ sẵn họ với nội dung: “Hai trẻ đang ở chỗ chúng tôi - mạnh khỏe - cậu bé thật anh hùng”. Sau khi đọc xong bức điện ông Rôlixơn gần như mất trí vì sung sướng, và vừa xiết chặt tay ông Tarcôpxki ông vừa nhắc đi nhắc lại: “Anh thấy chưa, chính nó đã cứu con bé! Tôi thật biết ơn nó vì tính mạng con bé!”. Còn ông Tarcôpxki, không muốn để lộ sự yếu lòng của mình, chỉ đáp lại qua hai hàm răng nghiến chặt: “Vâng. Thằng bé đã hành động rất can trường”. Nhưng đến khi còn lại một mình trong cabin, ông khóc lên vì sung sướng. 
Rồi cũng tới lúc bọn trẻ được lao vào vòng tay cha. Ông Rôlixơn bế thốc ngay lên tay cái kho báu vừa đoạt lại được của mình, còn ông Tarcôpxki thì ghì rất lâu vào ngực mình cậu bé anh hùng của ông. Nỗi bất hạnh đã qua đi, cũng như những cơn gió xoáy và bão táp trên sa mạc. Cuộc đời lại trở nên đẹp đẽ, đầy hạnh phúc, nỗi nhớ thương và chia li ngày trước chỉ càng làm cho niềm vui sướng lớn hơn mà thôi. Bọn trẻ chỉ ngạc nhiên một điều là trong thời gian chia li đầu của hai ông bố đã hoàn toàn bạc trắng. 
Họ quay trở về Xuê bằng chiếc tàu thủy tuyệt diệu của Pháp, thuộc về Công ti Messageries Martinimes, chở đầy khách du lịch từ các đảo Rêuyniông, Môritany, Mađagaxca và Dandiba. Khi cái tin là trên tầu đang có bọn trẻ trốn thoát khỏi tay bọn phiến loạn loan ra, thì Xtas bỗng trở thành đối tượng củ a sự tò mò và ngưỡng mộ của mọi ngườ i. Song cái gia đình hạnh phúc ấy chỉ muốn được độc lập trong một phòng lớn mà viên thuyền trưởng đã nhường lại cho họ, và ở đó, trong những giờ mát mẻ, họ dành thì giờ để kể chuyện cho nhau. Cả Nen cũng tham gia vào những câu chuyện đó, líu lo như một con chim non làm cho mọi người rất vui sướng, cô bé bắt đầu mọi chuyện bằng chữ “rồi”. Ngồi trên đầu gối cha, ngước đôi mắt xinh đẹp lên nhìn ông, cô bé nói thế này: “Rồi ba ạ! 
Rồi chú ng bắt cóc chúng con và chở đi trên lưng lạc đà - rồi Ghebơrơ đánh con - rồi anh Xtas che chở cho con rồi chúng con tới thành Kháctum - rồi ở đó người ta chết đói ghê lắm - rồi anh Xtas đi làm thuê để kiếm chà là cho con ăn - rồi chúng con đến Mahơđi - rồi anh Xtas không muốn đổi đạo - rồi Mahơđi đày chúng con tới Phasôđa - rồi anh Xtas giết chết con sư tử và tất cả bọn chúng - rồi chúng con sống trong một cây gỗ lớn mà chúng con đặt tên là ”Cracốp" rồi con King ở cùng với chúng con - thế rồi con bị sốt rét - rồi anh Xtas chữa cho con khỏi - rồi anh ấy chiến thắng người Xamburu - anh ấy bao giờ cũng tốt với con, ba ạ...". 
Cứ thế cô bé kể về Cali, về Mêa, và con King, về con Xaba, về núi Linđe, về những chiếc diều và về cuộc hành trình cuối cùng cho tới khi gặp đoàn của đại uý và bác sĩ. Nghe thấy những lời thỏ thẻ ấy, ông Rôlisơn không cầm được nước mắt, chốc chốc ông lại ghì chặt cô con gái yêu vào tim, còn ông Tarcôpxki không thẻ ngồi yên chỗ vì tự hào và sung sướng, vì ngay cả trong những lời thuật lại của đứa trẻ ấy cũng có thể thấy được rằng, nếu như không có sự can đảm và nghị lự c của cậu bé thì cô bé đã chết không phải chỉ một lần mà đã phải chết hàng nghìn lần, không phương cứu thoát. 
Xtas thuật lại mọi chuyện chi tiết hơn và tỉ mỉ hơn. Khi kể về cuộc hành trình từ Phasôđa đến cái thác nước, lòng em nhẹ nhõm hẳn đi, vì lúc kể tới chuyện em đã bắn Ghebơrơ cùng đồng bọn của hắn, thì em nghẹn lời và lo lắng nhìn sang cha, nhưng ông Tarcôpxki nhíu lông mày, suy nghĩ một lát rồi nói nghiêm trang: 
- Hãy nghe này, Xtas con! Không được phép mang cái chết đến cho bất kì ai, nhưng nếu có kẻ nào đe dọa Tổ quốc của con, đe dọa sự sống của mẹ con, chị em con, hoặc sự sống của người phụ nữ mà người ta uỷ thác cho con phải chăm lo, thì con chớ có hỏi gì thêm mà hãy bắn vào đầu hắn, và cũng đừng băn khoăn về điều đó làm gì. 
Ngay sau khi quay trở về Port Xaiđơ, ông Rôlixơn đưa Nen trở về nước Anh, nơi ông ở cố định. Còn Xtas thì được cha gửi đến trường học ở thành phố Alécxanđria, nơi người ta ít biết về những chuyện mạo hiểm và những hành động anh hùng của em. Bọn trẻ viết thư cho nhau gần như hàng ngày, nhưng suốt mười năm chúng không có dịp nào được gặp mặt nhau. Sau khi tốt nghiệp phổ thông ở Ai Cập, cậu bé theo học trường đại học bách khoa ở Durích, rồi sau khi có bằng kĩ sư, cậu làm việc trong công trình đào đường hầm ở Thuỵ Sĩ. 
Mãi mười năm sau, khi ông Tarcôpxki xin từ chức, hai bố con mới sang Anh thăm bạn bè. Ông Rôlixơn mời họ đến nhà ông, căn nhà nằm gần Hamtơn Cuốc, để ở suốt mùa hè. Nen đã hết tuổi mười tám, trở thành một thiếu nữ kiều diễm và Xtas, bằng giá của chính sự bình thản của tâm hồn, đã hiểu rằng một chàng trai vừa hai bốn tuổi có thể nghĩ về các thiếu nữ. Và anh nghĩ về cô Nen xinh đẹp nhiều đến nỗi rốt cuộc anh quyết định phải trốn đi thật xa, đến bất cứ một nơi nào khác. 
Nhưng chính lúc đó, một ngày kia, ông Rôlixơn đã đặt cả hai bàn tay lên vai anh, nhìn thẳng vào mắt anh và bảo anh với lòng đôn hậu thiên thần: 
- Cháu Xtas, cháu hãy nói cho bác biết: liệu trên đời này có ai khác để bác có thể tin tưởng trao cái kho báu - đứa con gái thân yêu của bác, hơn cháu hay không? 
Hai vợ chồng Tarcôpxki trẻ tuổi lưu lại Anh cho đến khi ông Rôlixơn qua đời. Năm sau, họ lên đường đi một chuyến du lịch dài. 
Vì họ đã hứa với nhau sẽ đi thăm lại những nơi mà thời thơ ấu họ đã từng sống, nên trước hết, họ tới Ai Cập. Vương quốc của Mahơđi và Ápđulahi đã sụ p đổ từ lâu. Người ta đã xây dựng đường sắt từ Cairô đến Khá ctum, đã dọn sạch các xuđa, nghĩa là những vùng nước đọng của sông Nin, nên đôi vợ chồng trẻ có thể đi một chiếc tàu thủy đầy đủ tiện nghi không những chỉ đến tận Phasôđa mà còn tới tận hồ lớn Víctoria Nianda. Rồi từ thành phố Phlorenxơ nằm trên bờ hồ này, họ đáp tàu hỏa tới Mombaxa. Đại uý Glen và bác sĩ Glery đã chuyển tới Nutaku, nhưng con King vẫn còn đang sống ở Mombaxa dưới sự chăm lo của chính quyền Anh tại địa phương. Con vật nhận ra ngay lập tức ông bà chủ xưa kia của mình, nhất là Nen, nó chào đón bằng những tiếng rống sung sướng đến nỗi những cây mangrôviô mọ c gần đấy rung lên như bị gió vậy. Nó cũng nhận ra cả con chó Xaba, con chó sống gần như gấp đôi tuổi thọ của loài chó, và mặc dù mắt đã hơi loà, nó vẫn đi cùng Nen và Xtas đến mọi chốn. 
Tại đây, Xtas được biết rằng Cali rất khỏe mạnh, và... Cali đang cai trị cả một vùng đất nằm về phía Nam hồ Ruđônphơ. 
.......... 
Sau chuyến du lịch cuối cùng này, hai vợ chồng Tarcôpxki trẻ tuổi quay trở về châu Âu và sống cùng với người cha đầu bạc của Xtas tại Ba Lan. 
--------------. 
1 Được lắm! (Tiếng Anh). 
2 Đó là những tiếng đầu trong bài Quốc ca Ba Lan.



Được cảm ơn :
61
:
Ngày tham gia :
30/04/2014
:
Tuổi :
24
:
Đến từ :
Đồng cỏ hoang vu
:
Huoucaocodbg
Huoucaocodbg

Huoucaocodbg
Super Moderator - Truyện Sưu Tầm
  • Super Moderator - Truyện Sưu Tầm
Được cảm ơn : 61
Ngày tham gia : 30/04/2014
Tuổi : 24
Đến từ : Đồng cỏ hoang vu
Ad post xong chuyện này chưa nhỉ?!



Được cảm ơn :
202
:
Ngày tham gia :
16/04/2014
:
Đến từ :
The Galaxy
:
K. Thiên
K. Thiên

K. Thiên
Administrator
  • Administrator
Được cảm ơn : 202
Ngày tham gia : 16/04/2014
Đến từ : The Galaxy
Truyện này post xong rồi nha.



Message reputation : 100% (1 vote)


Sponsored content



Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 2 trong tổng số 2 trang]

Chuyển đến trang : Previous  1, 2

Bình luận về bài viết

Bạn cần để bình luận về bài viết


Nếu chưa có tài khoản bạn vui lòng tài khoản

Quyền hạn của bạn:
Bạn không có quyền trả lời bài viết

 
  • Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất